8 thg 7, 2014

LAI RAI CHUYỆN CŨ


         
            Hai mươi năm đã qua rồi
            cát vàng bờ nọ đổ bồi bến kia
            ta về vót giọng chim khuya
            trên sông bèo bọt chia lìa nhau đi.

NÓNG LÊN: Ngày 4/11/1989, chính phủ Ba Lan ra tuyên bố về vấn đề tương lai của hai nước Đức. Tuyên bố viết: “Chủ tịch và chính phủ Ba Lan, tất cả các lực lượng chính trị và xã hội Ba Lan đã nhiều lần bày tỏ quan điểm của mình, rằng bất kỳ một cuộc thảo luận nào về tương lai hai nước Đức đều phải tính trước hết đến việc bảo đảm an ninh cho các nước láng giềng của họ và của châu Âu”.
Ba Lan không thể thờ ơ trước những sự kiện của hai nước Đức, đặc biệt là trước những ý định gần đây của một số giới chức nhằm thống nhất Đông Đức và Tây Đức. Xét về mặt lịch sử, Ba Lan nói, họ có quyền bày tỏ lập trường của mình về vấn đề quan trọng này. Tuyên bố nhấn mạnh: điều kiện cho sự ổn định và an ninh châu Âu là việc cân bằng về quân sự. Vi phạm những nguyên tắc cân bằng đó là hoàn toàn đi ngược lại tinh thần văn bản của các định ước về an ninh và hợp tác ở châu Âu.
Ba Lan quan tâm phát triển các quan hệ tốt đẹp với hai nước Đức, trước sau như một, tôn trọng sự bình đẳng trong đối xử, giao tiếp giữa các nước. Ba Lan nhấn mạnh, họ không chấp nhận luận điểm của những kẻ có ý định phục thù cho rằng biên giới Ba Lan – Đức vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Đường biên giới đã hình thành mấy thập niên qua là bất khả xâm phạm và dứt khoát không thay đổi.
  (Quý Vương, Le Figaro 6/11/1989)
PHÁT MINH ĐEN: Trong thế chiến 1 (1914 – 1918), nước Đức đã dùng vũ khí hóa học lần đầu tiên. Ngày 3/1/1915, ở Bolimav (Ba Lan), quân Đức đã bắn những viên đạn súng cối chứa hợp chất brom làm chảy nước mắt, và ngày 22/4/1915, ở mặt trận Ypres (Pháp) vào lúc 5 giờ chiều, xuất hiện một đám mây vàng lục, tỏa rộng 6 km2. Đó là khí clor rất độc, làm cho non 5.000 quân Pháp chết và hơn 15.000 bị thương. Trong suốt thế chiến này, 124.000 tấn chất độc đã được dùng, khiến cho gần 100 ngàn người chết, hơn triệu người bị thương.
Từ năm 1935, nhiều chất độc mới được phát minh. Chúng làm tê liệt hệ thần kinh, ngưng sự hô hấp và hoạt động của tim. Đáng nói, những chất đó có thể vào bằng đường hô hấp hay đi qua da. Trước khi chết, nạn nhân nhức đầu dữ dội, con ngươi khép lại, bắp thịt giật, ngộp thở. Đó là những hợp chất hữu cơ chứa phosphor, như thuốc trừ sâu – Ngoài ra, còn có những tác nhân làm cho cơ thể liệt kháng nhưng phải bị những liều mạnh mới chết. Đó là những chất loại benzilat. Chúng cũng có thể gây nên những rối loạn cho thị giác hay cho tiêu hóa, áp huyết giảm xuống, cơ thể tê liệt.
Trên đây là vũ khí hóa học cũ. Hiện giờ (1983) đã có loại mới, gọi là vũ khí hóa học “nhị phân”. Loại này gồm 2 chất không độc đựng trong hai nơi riêng rẽ, khi dùng thì cho chúng hòa trộn với nhau, và bấy giờ, chúng mới trở nên độc. Cụ thể là, trong đạn hóa học hai thành viên vẫn nằm riêng, khi đạn được bắn đi chúng mới trộn vào nhau và cho một chất độc thần kinh… Vũ khí hóa học nhị phân có nguy cơ lan tràn tới những nước có nền công nghiệp còn thấp kém và không có những biện pháp bảo vệ an toàn.
   (Nguyễn Tú, Panorama 14/9/1983)
ANH EM: Từ ngày 3 đến 16/3/1986, Trung Cộng bắn gần 10 ngàn viên đạn pháo vào bảy khu dân cư thuộc các huyện Bảo Lạc, Trùng Khánh, Hạ Lang, Hà Quảng (Cao Bằng), Quảng Bạ, Vị Xuyên (Hà Tuyên), Đình Lập (Lạng Sơn), Quảng Hà (Quảng Ninh) của VN.
Riêng huyện Vị Xuyên (của Hà Tuyên) chỉ trong 10 ngày đầu tháng 3, đã bị pháo binh Tàu dội hơn 4 ngàn viên đạn pháo các loại – Nửa tháng qua, lính Bắc Kinh đã mở mười vụ xâm nhập, tung biệt kích, thám báo sang phá hoại các khu vực thuộc huyện Quảng Hà (Quảng Ninh), huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), huyện Phong Thổ (Lai Châu), huyện Quảng Bạ (Hà Tuyên). Ngày 2/3, một toán lính Tàu xâm nhập sâu vào VN ở khu vực mốc 39 thuộc huyện Hạ Lang (Cao Bằng), chúng bắt đi hai nông dân đang chăn trâu. Ngày 7/3, một toán Tàu khác xâm nhập vào mốc 2 thuộc huyện Quảng Bạ (Hà Tuyên), bắt đi một người đang cày ruộng… Quân VN tại Quảng Ninh, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lai Châu, Hoàng Liên Sơn cảnh giác cao, đánh trả kịp thời, diệt nhiều lính Bắc Kinh gây sự.
   (Bửu Hà, Phổ thông TM 18/3/1986).
TIỀN NĂM 1991: Nay giá vàng khá ổn định, đầu tuần có giảm chút ít, và ổn trong cả tuần. So với tuần trước, giá vàng ký giảm 4.000 đồng một chỉ, vàng nhẫn giảm 3.500. Giá vàng thế giới cũng giảm khá mạnh, giữa tuần chỉ còn 365 USD một ounce, giảm 5 USD so với tuần trước.
Đôla ở thị trường chợ đen tuần qua cũng ổn, so với tuần trước giảm 50 đồng một USD. Giá đôla chợ đen nay giao động ở mức 11.200 đồng ăn một USD. Tỉ giá mua bán đôla ở Trung tâm Giao dịch ngoại tệ đầu tuần là 10.830 đồng / USD. Giá của ngân hàng ngoại thương, mua: 10.830 đồng/USD – bán: 10.880 đồng/USD… Giá vàng ở các tỉnh An Giang, Huế, Sài Gòn lại tăng chút ít. An Giang 480.000 đồng / chỉ – Huế 481.000 đồng / chỉ – Sài Gòn 468.000 đồng / chỉ.
  (PV. Kinh tế T.T, 24/5/1991)
TRỞ VỀ: Trong cuộc họp báo sáng 19/7/1988 tại Hong Kong, nhân viên phụ trách vấn đề người tị nạn của Hong Kong cho biết, các thủ tục nhằm đưa số thuyền nhân VN đang ở tại Hong Kong trở về nước đợt đầu đã hoàn tất. Hơn 320 người Việt sẽ hồi hương. Cao ủy LHQ phụ trách vấn đề dân tị nạn đã thuê một máy bay của hãng hàng không Trade Land Air để đưa 86 thuyền nhân (đợt 1) về VN vào chiều 26/7.
Hong Kong còn nói, tháng tới họ sẽ tổ chức một đợt nữa để đưa những người còn lại về quê – Trong khi đó, rất nhiều người trong số 10.764 thuyền nhân VN ở Hong Kong đã thấy rõ, họ không còn lý do để tiếp tục ở lại đây, và thuyền của họ đã bị phá tan tành. Một số người không dám dự các cuộc phỏng vấn để xem họ có phải dân tị nạn hay không. Một số khác sau khi dự phỏng vấn, đã không đến nhận giấy báo kết quả, vì họ biết chắc mình đã bị xếp vào loại di dân kinh tế.
  (Phú Khương, Bangkok Post 21/7/1988).
BẾN QUÊ
            hai mươi năm chẳng còn gì
            nước xuôi, cầu gãy, người đi không về
            bến quê lạnh suốt bốn bề
            còn trên không mảnh trăng thề gầy hao
            hai mươi năm qua rồi sao ?
            tóc xanh bạc tự giờ nào không hay
            tài hoa trôi dạt chân mây
            bến quê gió lộng đêm ngày cú kêu.
                                                  Đynh Trầm Ca
BẮT TAY VÀ ÔM HÔN: Ngày 2/10/1985, tổng bí thư Nga Sô M. Gorbachov đã nói chuyện trên đài truyền hình Pháp nhân dịp ông ta sắp thăm Pháp.
M. Gorbachov phát biểu: “Tôi đồng tình với ý kiến của tổng thống Mitterrand cho rằng, xét về nhiều mặt, cuộc đi thăm của tôi có tính chất đặc biệt. Về phần mình, chúng tôi sẽ làm hết sức để cuộc gặp gỡ đạt kết quả. Chúng tôi hy vọng, hai bên sẽ thúc đẩy đối với việc phát triển các mối quan hệ chính trị, kinh tế, mậu dịch, văn hóa, khoa học kỹ thuật”.
Ông Gorbachov nhấn mạnh, tình hình thế giới căng thẳng là một trong những nguyên nhân làm cho cuộc gặp của ông và tổng thống F. Mitterrand không thể trì hoãn. Nếu xét theo những việc làm, chớ không phải lời nói, thì tình hình thế giới ngày càng nóng, khó đoán, và nguy cơ thảm họa do hỏa tiễn hạt nhân gây ra vẫn còn nguyên – Về phần mình, Nga Sô đã và đang làm hết sức để sống trong hòa bình với các nước có chế độ xã hội khác nhau. Hơn thế nữa, chính nguyên tắc đó là cơ sở cho lập trường của Nga Sô đối với việc giải quyết các vấn đề quốc tế.
  (Quang Hưng, Paris Match 3/10/1985).
VÕ SĨ ĐẠO: Trong bối cảnh nội chiến ở Nhật (thế kỷ 12) nổi lên tầng lớp chiến binh gọi là samurai (người phục vụ). Trong các cuộc chiến, những người bị bắt làm tù binh, nếu thuộc dòng dõi quý tộc thì sẽ được hưởng đặc ân tự mổ bụng.
Các chiến binh võ sĩ phục vụ giới lãnh chúa Nhật. Danh dự, lòng trung thành, can trường là đặc điểm của võ sĩ đạo. Họ đem tính mạng mình ra bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ của chủ tướng giao – Đối với người Nhật, bụng là trung tâm cuộc sống. Mổ bụng tức là phơi bày sự thật ra trước mắt mọi người… Người ta mổ bụng bằng lưỡi dao thật sắc, từ cạnh sườn bên trái kéo tuột lên cạnh sườn bên phải, rồi ném xoạch bộ lòng đỏ lòm trước mắt kẻ thù, (harakiri).
Trong quan hệ thứ bậc xã hội Nhật thời đó, samurai được vinh dự ngồi cao, có quyền mang kiếm vào ra khắp các công đường và được mọi giới quý trọng. Cái chết do mổ bụng thường đến chậm, và gây nhiều đau đớn. Thông thường nghi thức này được tiến hành trong một ngôi chùa, vào ban đêm. Cuối cùng, samurai được các bạn giúp đỡ bằng cách chặt đầu, để cắt đứt cơn hấp hối… Tư tưởng võ sĩ đạo ăn sâu, len lỏi trong xã hội Nhật khá lâu sau này, nó thể hiện rõ ở các phi đội cảm tử Thần phong trong thế chiến 2.
  (Đức Nhuần, Khoa học KTCN, 10/9/1998).
ÔNG VÀ BÀ: Một bản nghiên cứu tuổi thọ mới đưa ra cho thấy, trung bình tuổi thọ đàn bà Ấn Độ dao động từ 58 đến 63, đàn bà Đức từ 62 đến 69. Riêng về tuổi của đàn ông hai nước đó, họ bảo hãy chờ ít lâu, còn đang theo dõi, bởi những con số những đúc kết tuổi thọ đàn ông còn nhảy múa, chưa chắc chắn.
Dù tìm hiểu khá lâu nhưng vẫn còn nhiều điểm người ta chưa biết, như tại sao có những vùng dân cư (đa số) không sống qua 60 tuổi, dù điều kiện kinh tế giống hệt khu vực xung quanh. Tại sao phụ nữ đạt tuổi thọ với mức chênh lệch nhau rất nhỏ, đàn ông thì chết loạn xị, không theo một nếp, một chuẩn nào cả?
Từ xa xưa, đàn bà luôn thọ hơn đàn ông, và người ta nói vui: không lạ, trời sinh thế! Về sau, các nhà khoa học phát hiện: ai ngủ nhiều sẽ sống lâu. Sở dĩ, theo số đông, tuổi thọ đàn bà cao hơn đàn ông 7 năm là do quý bà có giấc ngủ sâu hơn. Thường lệ, mỗi đêm phụ nữ có chừng 80 phút ngủ sâu (ngủ mê, thấy chiêm bao), còn quý ông chỉ được hơn 40 phút. Cạnh đó, phụ nữ rất ít bị bệnh mất ngủ.
Lối sống, cách sống cũng góp phần trong việc sống lâu hay mau. Phụ nữ chú trọng đến sức khỏe hơn, thường đi khám dự phòng, định kỳ hơn đàn ông. Họ ăn uống đúng, điều độ và dễ thấy là họ ít hút xách, ăn nhậu. Trong công việc thì họ làm nhẹ nhàng, ít bị căng thẳng vì sức ép trong môi trường sống hàng ngày.
  (Chu Quang, Hiệp lực 8/10 – Geo 12/10/1998).
LẠC QUAN: Giới chính khách Trung Hoa (TH) khác đời ở chỗ: công khai ủng hộ các cuộc chiến lớn, các mưu đồ hủy diệt, giết chóc – Ngày 16/5/1958, tại khóa họp lần thứ hai của đại hội 8 đảng CS.TH, Mao nói: “Chiến tranh là điều tốt. Ta sẽ có thể quét sạch chủ nghĩa tư bản nhanh hơn. Tôi cho rằng có thể tiêu diệt được chúng trong ba năm. Có bom nguyên tử chiến tranh sẽ ngắn hơn một năm so với trước, sau đó sẽ không có chiến tranh nữa. Có chiến tranh nghĩa là sẽ có người chết. Trong 600 triệu người (dân số TH năm 1958), nếu một nửa chết, vẫn còn lại 300 triệu. Nếu trong chiến tranh một nửa nhân loại bị chết thì điều đó cũng không có ý nghĩa gì mấy. Thực ra, nếu chỉ còn lại 1/3 dân số có khi lại là điều tốt. Sau một số năm nào đó dân số sẽ lại tăng lên”.
Ngày 21/7/1975, trả lời các nhà báo Nhật, Đặng Tiểu Bình nói: “Đại chiến thế giới lần thứ ba khó thể tránh được. Có thể, trong cuộc chiến này nhiều người sẽ chết đấy, nhưng nó sẽ làm cho việc giải quyết các vấn đề của các dân tộc bị áp bức và của nhân loại trở nên dễ dàng. Nó không tồi lắm đâu. Thường thì các cuộc chiến nổ ra không phụ thuộc vào ý chí của con người”.
Nuôi trong đầu ý nghĩ: chiến tranh có thể bùng phát bất cứ lúc nào, nên TH chưa bao giờ nghĩ tới việc giải trừ quân bị. Ngày 17/7/1972, Chu Ân Lai tuyên bố: Với tình hình âm ỉ hiện giờ thì ai cũng phải tăng cường vũ trang. Tại khóa họp thứ 32 Đại hội đồng LHQ, các đại diện TH gọi vấn đề giải trừ quân bị mà một số nước đề ra chỉ là sự lừa bịp. Bộ trưởng quốc phòng Từ Hướng Tiền nói: “Cần phải chuẩn bị chu đáo cho các cuộc chiến tranh sắp nổ ra”.
  (“Châu Á trong các kế hoạch của Bắc Kinh”, NXB Sự Thật, 1984, tr. 169 – 171).
* Lời bàn: Mao tàn bạo thế nào? – Có thể trả lời bằng câu hỏi: “Chiến thuật biển người là gì?” – Nói đến man rợ, nhiều người điểm tên Hitler. Đúng ra, ông chủ bộ râu cứt mũi phải gọi Mao bằng cụ. Mao giữ kỷ lục thế giới: người giết đồng bào nhiều nhất, đã hơn 43 năm chưa ai phá được.
BỂ KHỔ: Trong mấy năm gần đây mức độ thiên tai có chiều hướng tăng lên. Năm 1983 những trận mưa lớn hiếm thấy xuất hiện dày đặc, gây lũ lụt nặng ở Trung Hoa, Ấn Độ. Năm 1985 thiên tai lại xảy ra ở nhiều nước trên thế giới với cường độ ác liệt hơn, trong đó có những đợt rét kèm theo mưa tuyết dữ dội ở Hà Lan, Ý, Pháp, Anh, những trận mưa lũ cực lớn chụp xuống Indonesia, Ấn Độ, Trung Hoa, Phi, Bangladesh. Những tai ương trên đã làm hàng vạn người mất mạng, hàng vạn nhà cửa bị phá hủy. Đặc biệt, trong năm 1985 có ba thiên tai lớn xảy ra ở Mexico, Colombia, Bangladesh. Đó là trận bão kèm theo sóng thần cao hơn 10 mét tràn qua bờ biển miền trung Bangladesh ngày 25/5, khiến cho gần 6 vạn người chết và mất tích, hàng ngàn tàu thuyền bị đắm, (có một hòn đảo nhỏ với một vạn dân đã bị nước biển nhấn chìm và cuốn đi mất dạng). Đó là hai trận động đất liên tiếp, từ 19 đến 21/9/1985 ở Mexico làm cho hơn 9 ngàn người chết và mất tích, trên hai vạn người bị thương, 50 ngàn gia đình mất nhà ở. Đó là tai họa do núi lửa Kobota gây ra cho Colombia, ngày 14/11/1985. Sau 60 năm ngủ yên, núi lửa Kobota bật dậy, nó làm cho trên một vạn người chết, gần 2 vạn người bị thương, hơn 5 vạn người mất nhà ở.
Ở VN, cơn bão số 7 (Nancy) đổ bộ vào Nghệ Tĩnh ngày 18/10/1982 và cơn bảo số 8 (Cecil) vào Bình Trị Thiên ngày 16/10/1985 là những cơn bão mạnh nhất trong vòng trăm năm qua, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Quang cảnh những vùng bão quét trông giống như cảnh sóng thần tàn phá mà ta xem thấy trong phim ảnh. Riêng trận bão ngày 16/10 (ở Bình Trị Thiên), gió mạnh và nước dâng cao 4 mét đã cuốn đi 420 người của phá Tam Giang, nằm về phía đông nam TP. Huế.
(Văn Loan, Phật pháp – Khoa học CN, 27/11/1985).
ĐI: Chương trình trẻ lai Mỹ xuất cảnh được khởi sự từ tháng 8 năm 1988, tính đến hết năm 1989 có 31.223 trẻ lai Mỹ và thân nhân đã rời VN sang định cư tại Hoa Kỳ (HK). Ước tính, còn chừng 35 đến 40 ngàn người khác đang chờ đợi để xuất cảnh theo chương trình này, trong đó có hơn 14 ngàn người đã làm xong thủ tục xuất cảnh của VN, chờ đoàn nhập cư HK phỏng vấn để được cấp thị thực nhập cảnh; 2.600 người đã làm đủ thủ tục của cả hai phía, đang chờ chuyến bay trong tháng 1, tháng 2 tới; 4.500 người đã được phỏng vấn, khám sức khỏe; hơn 10 ngàn người đang được cục quản lý xuất nhập cảnh xét cấp hộ chiếu để lên danh sách trao cho phía Mỹ; và non 10 ngàn người khác đang làm hồ sơ xin xuất cảnh – Năm 1989 là năm có số lượng người ra đi nhiều nhất: 15.766 người, chiếm một nửa trong tổng số người ra đi tính từ đầu chương trình (dự kiến diễn ra trong hai năm). Giải quyết vấn đề con lai là giải quyết một trong các vấn đề thuộc hậu quả do chiến tranh để lại, nên hai phía đều thấy cần làm nhanh, dứt điểm.
Vừa qua, phía VN đề nghị  Mỹ gia hạn luật Home Coming act thêm hai năm nữa để có đủ thời gian giải quyết xong toàn bộ chương trình – VN sẽ xét hồ sơ xuất cảnh, cấp hộ chiếu và lên danh sách trao hết cho phía Mỹ vào cuối năm 1990.
(Trung Việt, Công Luận – QT, 11/3/1990).
VỀ LẠI ĐỒNG BẰNG
            Giờ không còn biển ru tôi
            Vẫn nghe tiếng sóng bồi hồi thiết tha
            Tưởng như núi mọc quanh nhà
            Ngờ đâu núi biếc lại là cây xanh
            Trở về sóng lúa reo quanh
            Lại ru tôi với âm thanh ngọt ngào.
                                                  Hạc Thành Hoa
GIAO THỜI: Hiện giờ kho vũ khí hạt nhân của Nga Sô vẫn nằm trong tay M. Gorbachev, dù ông ta đã mất đi nhiều quyền lực. Ông cùng với bộ trưởng quốc phòng, là hai người có quyền ra lệnh khai hỏa 29 ngàn đầu đạn hạt nhân. Họ nắm mật mã của hệ thống phóng phi đạn. Các chuyên viên về vũ khí hạt nhân tin rằng B. Yeltsin cũng có quyền hạn về hạt nhân. Bởi vì, nghe đâu, nếu muốn bổ nhiệm các cương vị cao trong bộ quốc phòng M. Gorbachev phải hỏi ý kiến của B. Yeltsin.
Có thể thấy, T.T Bush do dự trước các tuyên bố độc lập của những nước cộng hòa như Ukraina. Khả năng có nhiều ngón tay đặt trên bệ phóng khiến Mỹ lo lắng – Theo hiệp ước Start, Nga và Mỹ đang hủy hàng loạt vũ khí hạt nhân. Vì vậy nếu Nga không còn kiểm soát được kho vũ khí, hiệp ước Start sẽ mất giá trị.
Các nhà phân tích chính trị cho rằng, thực ra vấn đề này không đáng quan tâm, vì gần toàn bộ kho vũ khí này nằm trên lãnh thổ Nga, bao gồm 80% tên lửa liên lục địa, tất cả tàu ngầm, và các máy bay ném bom hạt nhân – Ukraina, Kazakhstan có ý muốn giữ các vũ khí hạt nhân ở lại nước mình để làm công cụ răn đe… Một hiểm họa khác nữa là, tám ngàn vũ khi hạt nhân tầm ngắn trong đó
có nhiều đầu đạn trọng pháo, được bố trí khắp Nga Sô, rất khó kiểm soát.
(Duy Sơn, Thời báo CT và AFP 14/10/1990).
HỌ NHƯ VẬY: Trước kia nhiều người xem thường nền công nghiệp Nhật, cho rằng Nhật chỉ biết mô phỏng, bắt chước. Bỗng dưng, công ty Sony mua đứt hãng Columbia của Mỹ, ai nấy bật ngửa. Chỉ trong vòng hai thập niên, Nhật đã vùng lên, thoát khỏi nghèo khổ, trở thành nước giàu. Đối với họ, 2 thập niên không phải 20 năm mà là 7.300 ngày. Từ năm 1945 đến 1970, mãi lực của Nhật tăng lên gấp năm lần.
Nếu nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng sức mạnh của Nhật trước hết là nhờ số dân đông đảo. Họ là nước đông dân xếp thứ bảy thế giới. Sức mạnh của họ bắt nguồn từ chỗ chăm sóc, đầu tư lớn vào giáo dục, hơn 80% trẻ em Nhật được học hành đấy đủ, đến hết cấp 3. Hàng trăm trường đại học luôn sẵn sàng đón nhận sinh viên đến từ mọi giới… Biết nước mình nghèo về tài nguyên, lại bị chiến tranh tàn phá, người Nhật cố gắng làm việc, làm không biết mệt, đến nỗi chính phủ phải kêu gọi dân chúng nên nghỉ ngơi chút đỉnh, đừng làm ngày chủ nhật và hàng năm công nhân nên đi du lịch mười ngày.
Người Nhật biết, họ đang ra sức tạo dựng sự phồn vinh cho đất nước, nên không muốn có những xung đột xã hội. Mọi người nhường nhịn nhau vì lợi ích cộng đồng, đặt cái chung trên cái riêng. Nhờ đó, Nhật là xã hôi có kỷ luật tuyệt hảo, tôn trọng trật tự trên dưới. So với các nước văn minh khác, số tội  ác tội phạm ở Nhật thấp nhất.
(Lý Cẩm Châu, Chánh đạo 7/3/1991).
 KHÔNG DỌA: Mới đây, Trung Hoa (TH) đã lập một căn cứ hỏa tiễn mới ở phía bắc tỉnh Quảng Đông, trong khu vực miền núi Lỗ Sơn. Tại đây Bắc Kinh đặt các hỏa tiễn DF.21C và hỏa tiễn tầm xa OJ.10, cả hai loại này đều có tầm bắn xa hơn 2.300 cây số.
Có lẽ muốn khoe, hay đe nẹt các ông bạn hàng xóm, Bắc Kinh đã cho báo chí rao to về sự ra đời của cụm hỏa tiễn này, với các chi tiết, thí dụ: đơn vị này thuộc đội pháo binh 2 tên lửa chiến lược, trước kia đóng tại An Huy, nay do đoàn 4939 điều khiển – Việc lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình là chuyện bình thường, điều không bình thường ở đây là thời điểm, bối cảnh của việc thiết lập, điều khó hiểu là đích ngắm của số hỏa tiễn đó.
Biển Đông đang là điểm nóng khi TH liên tiếp mở ra nhiều hoạt động phục vụ cho mưu đồ tranh giành chủ quyền và lãnh thổ đối với các vùng biển, đảo của những nước nhỏ quanh mình – Giới quân sự quốc tế cho rằng, TH xây dựng căn cứ mới này để đối phó với tình hình phức tạp tại châu Á, đặc biệt là Đài Loan và biển Đông. Phạm vi tấn công của cụm hỏa tiễn này bao phủ hơn 70% diện tích biển Đông, và còn có thể vươn tới nhiều mục tiêu khác ở VN và Philippine.
  (Nguyễn Lưu, Quốc tế và ABC News, 10/8/2005).
* Có người nói, nếu nằm xa Tàu chừng 400 cây số thì nay ít ra VN cũng bằng Thái, Hàn. Các nước có chung biên giới với Tàu đều bị chúng quấy nhiễu, kể cả Nga.
KHỦNG HOẢNG: Bản tuyên bố Brest viết rằng, sự ra đời của Cộng đồng các quốc gia độc lập đang viết nên trang sử mới trên vùng đất bao la của Nga Sô.
Thế giới chăm chú theo dõi những diễn biến dồn dập, bất ngờ đang diễn ra ở Nga, nơi mà sự bất ổn chính trị, xã hội và suy sụp kinh tế xoáy vào đời sống của hơn 290 triệu người. Mọi người thấy, họ đang chứng kiến sự tan rã của Liên bang Sô viết, và sự phá sản của một mô hình xã hội không biến được những khát vọng về công bằng xã hội và hạnh phúc của loài người thành hiện thực. Sự bất hạnh lịch sử này bắt đầu từ mùa thu 1989 ở Đông Âu.
Đáng lo ngại hơn, trong khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy thì những bất đồng và mâu thuẫn bắt nguồn từ quá khứ xa xôi của các sắc dân có thể bùng nổ thành các cuộc xung đột khó lường trước được hậu quả. Tổng thống M. Gorbachev báo động: nếu sự tan rã lên quá mức giới hạn, nó sẽ gây tổn thất lớn cho Nga, và có thể cho toàn châu Âu. Cạnh đó, tin đồn về các cuộc đảo chánh lan truyền dai dẳng, rộng khắp, và đặc biệt là dự đoán về một mùa đông đói rét sắp tới có thể dẫn đến những rối loạn mới – Từ khi chính sách cải tổ đề ra (3/1985) đến nay chưa tròn 6 năm mà Nga Sô đã rơi tõm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng.
(Hải Khoa, Asiaweek và Tin sớm, 6/11/1990).
MỆT: Trong thời gian từ 1975 đến 1987, tất cả những người Việt đã vượt biên đương nhiên được coi là tị nạn và được chấp nhận để tái định cư ở các nước phương Tây. Hiện nay tình hình đã thay đổi.
Sự tiếp tục ra đi của người Việt 14 năm sau khi chiến tranh chấm dứt và quan niệm thay đổi của quốc tế về tính chất của sự di tản, đã đưa đến Hội nghị quốc tế về vấn đề tị nạn Đông Dương vào thàng 6/1989 tại Genève – Từ nay, người Việt vượt biên đến các nước vùng ĐNA (hoặc Hong Kong) sau tháng 3/1989 không còn đương nhiên được thừa nhận là tị nạn, và vì thể không còn được tái định cư ở các nước phương Tây nữa – Chỉ những người Việt đã qua thủ tục phỏng vấn, và được xác định là tị nạn mới được cứu xét cho tái định cư – Những người không được coi như là tị nạn (qua thủ tục phỏng vấn) sẽ phải trở về VN – Chương trình ra đi trật tự (ODP) sẽ được mở rộng để nhiều người có thể rời VN bằng con đường hợp pháp.
Để có thể đoàn tụ với thân nhân ở nước ngoài, người Việt nên nộp đơn qua ODP ở VN. Ngoài chương trình đoàn tụ gia đình, còn có chương trình dành cho những người được thả từ các trại cải tạo và chương trình con lai. Vào năm 1990, có trên 72.000 người đã rời VN qua ODP. Vào khoảng 100.000 người khác có thể rời VN trong năm 1991. Chương trình ODP chỉ hoạt động thẳng từ VN – Những người VN không được xác định là tị nạn phải trở về VN. Từ năm 1989 đến tháng 1/1992, đã có 21.000 người Việt hồi hương dưới sự bảo trợ của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc.
(Văn Hữu Lạc, Đối thoại 23/2/1992).
KIÊN TRÌ: Từ xưa Trung Quốc (TQ) coi ba nước Đông Dương (ĐD) là đất cũ, cần phải nằm trong phạm vi ảnh hưởng của chúng. Chúng cũng thường dùng ĐD làm bàn đạp để tăng cường chính sách bành trướng ở Đông Nam Á (ĐNA).
Về mặt kinh tế, ĐD, vịnh Bắc bộ, biển Đông, vịnh Thái Lan có rất nhiều tài nguyên và khoáng sản trong lòng đất, ở thềm lục địa và đáy biển, là những miếng mồi to khiến Bắc Kinh (BK) thèm khát – Về quân sự, ba nước ĐD là những nước đệm, áo giáp che chở cho TQ ở phía nam. Khống chế được các nước này, khống chế được biển Đông, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vị trí khác ở nam Thái Bình Dương có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện chiến lược bành trướng, trước mắt là tăng thế lực của TQ trong cuộc đấu giành ảnh hưởng và quyền lợi với Mỹ, Nhật ở Nam Á.
Để thực hiện các mục đích trên, hơn 30 năm qua, BK đã dùng nhiều thủ đoạn chính trị, kinh tế, ngoại giao tinh vi nhằm từng bước đặt ĐD vào quỹ đạo của chúng – Trong hai thập niên 1950 – 60 TQ đã viện trợ cho ĐD chống Pháp Mỹ, nhưng động cơ chính của chúng là “thả con săn sắt bắt con cá rô”. Chúng sử dụng viện trợ để thu phục nhân tâm, dụng ý lái ba nước ĐD đi theo đường của chúng. Nên biết, ngay trong thời kỳ quan hệ hữu nghị còn nồng ấm, BK vẫn áp dụng sách lược vừa giúp vừa lấn, dùng giúp để lấn, tình trạng này thể hiện rất rõ ở các khu biên giới.
Khởi từ tham vọng bành trướng, ngay từ đầu thập niên 1950, BK đã rêu rao những biên giới “còn tranh chấp” với 14 nước láng giềng. Chúng vẽ lại bản đồ TQ và đưa ra yêu sách về lãnh thổ: năm 1954 đòi 1,5 triệu km2 đất của Mông Cổ, năm 1956 đòi 70.000 km2 của Miến Điện, năm 1959 đòi 132.000 km2 của Ấn Độ, năm 1964 đòi 1,3 triệu km2 của Liên Xô… Ở các vùng biên giới, BK thường mở những cuộc chiến phá hoại, nó diễn ra bền bỉ, lâu dài, trên nhiều lãnh vực: quân sự kinh tế chính trị, chủ đích của nó là làm đối phương suy yếu, là bước chuẩn bị cho các cuộc chiến lớn sau này.
(“Một số đặc điểm của chủ nghĩa bành trướng TQ”, NXB Thông tin Lý luận, 1984, P.13 – 57).
* Tiên tri nói, nếu cứ đi theo những gã “dẫn đường” ngây ngô, quáng gà hiện giờ thì 50 – 70 năm nữa Lào sẽ thành Tây Tạng thứ hai, (nó thua vì loại súng 2 viên đạn của Tàu). Điều này có nghĩa: lớp trẻ Tàu mạnh, lớp trẻ Lào đần.
CUỐI ĐÔNG
            Thời tiết diệu kỳ sao / Cuối đông, trời trở ấm
            Như tột cùng nỗi đau / Chợt thấy lòng thanh thản
            Một mình ngồi dưới nắng / Tiếng ong bay đầy hè
            Mang giọt đời sâu nặng / Mình thương mình, tái tê
            Điều nghiêm túc trước kia / Nay trở thành hài hước
            Thứ ta từng giễu cợt / Giờ hóa chuyện nghiêm trang
            Tổ ong đầy mật vàng / Mình là con ong thợ
            Cuối đông, ngồi gác cửa / Cho đất trời sang xuân.
                                                                     Võ Văn Trực
TỐT MỌI MẶT: Ở các nước Đông Âu, 5 năm cuối của thập niên 1970 bắt đầu có những đổi mới đáng kể trong nền kinh tế. Cơ sở kỹ thuật sản xuất đang được cải tạo nhằm chuyển sang cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 4. Cơ cấu sản xuất biến đổi theo hướng ưu tiên cho các ngành tiên tiến.
Kết thúc một chặng đường phát triển, năm 1981 ghi nhận những kết quả bước đầu nhiều hứa hẹn. Nhìn chung, thu nhập quốc dân của công nghiệp, nông nghiệp tiếp tục tăng với nhịp độ đạt và vượt kế hoạch. Theo các đánh giá mới nhất, năm 1981 thu nhập quốc dân của Liên Xô tăng 6%, sản xuất công nghiệp tăng khoảng 4,3%, sản lượng nông nghiệp tăng gần 8%. Ở Hung ga ri, nền kinh tế lớn mạnh, đạt được những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ năm. So với cùng kỳ năm trước, 6 tháng đầu năm 1981 thu nhập quốc dân của CHDC Đức tăng 6,7%, sản phẩm công nghiệp tăng 7,2%. Ở Cu Ba, tổng sản phẩm tăng 4,2%, năng suất lao động tăng hơn 8%. Ở các nước khác, nhìn bao quát, tình hình chung cũng tương tự.
Hai năm 1980, 1981 Liên Xô đã chế tạo hơn 6.000 máy các loại, hàng tháng cho ra đời 1.300 người máy. Ở CHDC Đức, việc tăng cường đổi mới cơ sở kỹ thuật của sản xuất đã cho phép tăng số lượng máy móc, thiết bị có tuổi dưới 6 năm lên hơn 30%. Trong 5 năm (1976 – 1981) Ru ma ni đã hiện đại hóa 20 ngàn máy, thiết bị, ứng dụng 9 ngàn quy trình công nghệ mới. Các ngành chế tạo, kỹ thuật điện, điện tử, người máy có vai trò lớn trong việc trang bị lại kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế.
(Hữu Khoa, Tin tức 6/3, Diễn đàn 9/3/1982)
CÁ MẬP: Cô bé con bà chủ nhà hỏi ông K: “Nếu cá mập là người liệu chúng có cư xử tử tế với loài cá nhỏ hơn người không hở ông?”.
Ông đáp: “Ừ, hẳn rồi. Nếu cá mập là người, chúng sẽ cho xây khu nhà ở thật lớn trên biển cả, trong đó chứa đầy lương thực thực phẩm, lại còn có thảo mộc và bách thú để ngắm nữa. Chúng sẽ lo liệu cho khu cư xá này luôn luôn có nước tươi mát, và đề ra nhiều biện pháp chăm lo sức khỏe cho loài cá nhỏ. Chẳng hạn, nếu có con cá nhỏ bị thương, lập tức cá mập sẽ băng bó xức thuốc rồi đưa tới nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Để cá nhỏ khỏi u sầu, thỉnh thoảng sẽ có những lễ hội dưới nước, bởi vì nếu sống vui thì cá nhỏ sẽ ăn uống ngon miệng. Dĩ nhiên, cũng có trường học ở khu cư xá rộng lớn này. Tại trường, cá nhỏ sẽ học phương pháp bơi lội trong hàm cá mập. Bên cạnh, chúng còn học cả môn địa lý, sinh vật, đạo đức, mỹ thuật. Chúng sẽ được dạy dỗ rằng, điều cao cả và đẹp đẽ nhất chính là lòng tự nguyện hy sinh, và rằng chúng phải tin vào cá mập, nhất là khi chúng nghĩ đến một tương lai sáng lóa.
Nếu cá mập là người, đương nhiên chúng phải gây chiến tranh với nhau, để cướp bóc những khu cư trú khác. Chúng sẽ cho bọn cá nhỏ của chúng gây chiến tranh, chúng không đích thân ra tay. Chúng sẽ dạy bảo cá nhỏ rằng, bầy cá nhỏ của chúng và loài cá nhỏ của những con cá mập khác luôn có một mối tử thù với nhau. Trong các cuộc chiến, con cá nhỏ nào giết được nhiều cá nhỏ thù địch sẽ được cá mập gắn huân chương bằng rong biển, đồng thời phong cho danh hiệu anh hùng cao quý – Nếu cá mập là người, tất nhiên chúng cũng có tôn giáo. Cá mập sẽ giảng rằng, cõi chân phúc đời đời cho cá nhỏ chính là cái bụng cá mập, cá nhỏ lúc nào cũng được đối xử bình đẳng, nhưng con đường phát triển của mỗi đứa sẽ khác nhau chút ít, tùy theo sự phấn đấu cụ thể. Một số cá nhỏ sẽ trở thành những viên chức, sẽ được hưởng những quyền lợi thơm tho, đôi lúc còn có thể được phép xơi tái mấy con cá nhỏ lười hoặc phạm tội. Và chính cá mập, trong những lúc tinh thần phấn chấn cũng có thể xơi vài con cá nhỏ… Tóm lại, nếu cá mập là người, chắc hẳn thiên hạ sẽ có cơ hội được ngắm một nền văn hóa dưới biển độc đáo mới lạ”.
(Bertolt Brecht, Anh Minh dịch, Daily Mirror, 28/7/1991).
GIỎI HAY QUÁI QUỈ: Gần đây, báo chí tư sản phương Tây ra sức tâng bốc sự khôn ngoan về chính trị của nhóm người cầm đầu Bắc Kinh (BK). Họ ca ngợi chủ nghĩa thực dụng và hết lời khen BK biết khắc phục những sai lầm lớn trong quá khứ.
Về thực chất, chủ nghĩa hiện thực của Trung Hoa (TH) được hiểu trước hết là con bài chống Liên Xô, và chủ nghĩa bá quyền trong mối quan hệ với các nước CS láng giềng. Mặc dù tô son điểm phấn cho chính sách thỏa hiệp của mình, kể cả việc phục hồi danh dự cho những người đã chết trong “cách mạng văn hóa” và cách chức “bè lũ bốn tên” nhưng thực sự hoạt động quốc tế của TH vẫn tuân theo nguyên tắc của Mao, coi Liên Xô và các nước CS khác là kẻ thù – Hoạt động của giới chóp bu TH sau khi Mao chết (năm 1976) xác nhận rằng họ hành động hoàn toàn phù hợp với thuyết “ba thế giới” của Mao. Đó là liên minh với các thế lực đế quốc, có như thế mới mong TH trở thành cường quốc thống trị châu Á.
Trong bối cảnh mập mờ, sự mất cân đối giữa tình trạng lạc hậu về kinh tế của TH với tham vọng quân sự và bá quyền của băng cầm đầu nhiều lúc lộ ra rất rõ. Do đó, họ mong muốn cho sự đối địch giữa phương Đông và phương Tây ngày càng trầm trọng thêm. BK hy vọng, nếu xung đột quân sự xảy ra, thì tương quan tiềm lực kinh tế quân sự giữa họ và nhiều nước tư bản sẽ thay đổi có lợi cho họ – Không tinh ý vẫn thấy, TH tiếp tục theo đuổi âm mưu gây căng thẳng trong quan hệ với các nước CS, cùng lúc can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước quanh vùng, và gây tổn hại đến chính sách hòa bình của thế giới. Họ câu kết với những thế lực phản động để thực hiện nhiều ý đồ xấu, sẵn sàng dập tắt khát vọng hòa bình của các nước văn minh.
(Đàm Thanh Phương, theo Reuters 16/6/1981)
* Đối với TH, người ta gọi họ là ông hay thằng cũng như nhau – Sự tiến bộ của khoa học KT có thể che lấp nhược điểm “không thiện chiến” của họ.
SÁU NGÀY: Israel và các nước láng giềng Arab vốn hiềm khích nhau từ năm 1948 khi Israel thành lập quốc gia ngay trên vùng đất mà cộng đồng Arab bảo là đất của họ.
Năm 1956, Israel tràn vào Ai Cập trong cuộc chiến Suez – Sinai. Tổng thống Ai Cập lúc đó là G. A. Nasser thề sẽ trả thù cho sự xâm lấn này. Do vậy, ông tổ chức một khối liên minh Arab bung ra bao vây, tấn công Israel vào ngày 5/6/1967. Làm dữ phải lo xa, bị đánh thình lình nhưng Israel không thấy bất ngờ, bởi đã chuẩn bị trước. Họ có nhiều vũ khí tối tân, quân đội tinh nhuệ nên nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường. Từ ngày 7/6, Israel đẩy lùi quân đội Arab và chiếm luôn bán đảo Sinai, dải Gaza, Bờ Tây và đồi Golan.
Còn nhớ, từ năm 1948 đến 1967, Israel vẫn chưa được các nước láng giềng công nhận và không một hiệp ước hòa bình nào xác định vùng biên giới chung. Biên giới thực tế lâu nay chỉ là các ranh giới ngưng bắn tạm thời – Cuộc chiến năm 1967 này diễn ra ác liệt và chóng vánh, nó chấm dứt vào ngày 10/6/1967 sau khi phía Arab (gồm Ai Cập, Syria, Jordan) chịu ngừng bắn. Trong 6 ngày Israel chiếm thêm được 64.000 km2… Vụ này như một vết thương lớn, nhức nhối mà phe Arab phải lãnh, nó hằn sâu vào thân thể, tâm trí họ. Tạm thời, Israel thắng lợi, nhưng những người am hiểu chính trị cho rằng, họ sẽ không ngạc nhiên nếu trong tương lai nước này bị giáng cho những đòn thù khủng khiếp, vì quanh anh ta có nhiều kẻ thù, những người không quá hèn quá nghèo.
(Văn Tuấn, blog Gia Định – AP. 3/4/2000).
TÀU TRẺ: Một đạo diễn điện ảnh Hong Kong tiết lộ: “Trong phim của chúng tôi cái thật chỉ có chừng 5%, số còn lại là thêm thắt, tưởng tượng, nhưng khán giả lại thích như vậy”.
Ở Hong Kong, nhà sản xuất phim nào cũng làm theo phương thức này vì đó là bí quyết thành công và hái ra tiền của họ. Những cảnh rùng rợn, những câu chuyện tình sướt mướt lâm ly, những nỗi đời éo le oan trái, những tình tiết quá lố trên trời dưới đất đều được đem vào phim, khai thác một cách rộng rãi, trộn lẫn xào xáo thành một món hổ lốn giúp cho giá thành của cuốn phim thấp xuống rất nhiều, cùng lúc lại mang về cho nhà làm phim những số tiền kếch sù. Năm rồi (1982) Hong Kong đã cho ra lò 164 cuốn phim, gồm những phim tình cảm, quái đản, hài hước, chưởng, ma, khoa học giả tưởng. Với số lượng này, Hong Kong đứng hàng thứ ba trong những nước sản xuất phim nhiều nhất thế giới, chỉ kém Mỹ và Ấn Độ.
Công chúng Hong Kong rất ghiền xi nê. Khu phố nào cũng có một hai rạp to có thể chứa vài ngàn người, và số lượng rạp chiếu bóng là con số khó tin: hơn một ngàn! Dân Hong Kong trung bình mỗi người xem 11 cuốn phim trong một năm, nhiều gấp hai lần khán giả Mỹ. Nhờ vậy, năm qua các hãng phim Hong Kong đã thu được 216 triệu USD, trong khi số vốn họ bỏ ra chỉ non 600 ngàn USD. Ngoài sân nhà, phim Hong Kong còn được tiêu thụ khá mạnh ở Mã Lai, Đài Loan, Tân Gia Ba, Thái, Đại Hàn, Nhật và các thành phố đông người Hoa ở Hoa Kỳ… Hơn bao giờ, Hong Kong đang trải qua cơn sốt làm phim, các hãng phim tranh thủ chạy đua với kim đồng hồ để cho ra lò càng nhiều phim càng tốt. Nhìn họ làm ăn, ta thấy họ cập rập, chụp giựt, kiểu như phải làm ngay không thì ngày mai trời sụp!
(Trần Bảo, theo Discovery 6/2/1983).
THỨC DẬY: Sau hơn nửa thế kỷ nằm im, do bị ràng buộc của các điều khoản ký với quân Đồng Minh (khi đầu hàng, hồi thế chiến II), gần đây Nhật rục rịch tăng cường quân đội, vũ khí.
Theo giới nghiên cứu chính trị, năm 2004, trong lúc tình hình quân sự của các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương thay đổi mau lẹ, đáng lo ngại, trong đó nổi cộm là Bắc Hàn với những động thái lạ (dạng manh động, bốc đồng) xưa nay chưa có, trở thành mối đe dọa lớn, không chỉ cho Nhật, khiến nhiều nước (như Nam Hàn, Ấn Độ) nhấp nhổm, người Nhật thấy đã tới lúc mình phải có cái nhìn mới về quân sự, phòng vệ.
Cạnh đó, những tranh chấp lâu năm với Nga tại quần đảo Kuril, với TH ở đảo Senkaku, với Nam Hàn tại đảo Takeshima vẫn cứ nằm yên ở tình trạng tranh chấp… Để thuyết phục người dân, chính phủ Nhật chỉ cho họ thấy, từ năm 1992 Trung Hoa (TH) đã gia tăng ngân sách quốc phòng liên tục, với mức năm sau cao hơn năm trước 15 – 20%, đây là đối tượng đáng chú ý thứ hai, sau Bình Nhưỡng. Kế đến, trong thời gian Nhật ngủ đông, các nước xung quanh đã xây dựng cho họ một nền quốc phòng cứng cáp, nên hiện giờ Nhật nằm lọt thỏm giữa các nước có vũ khí hạt nhân: TH, Bắc Hàn, Nga. Do vậy, không còn đường nào khác, Nhật phải tìm cách bảo vệ mình – Năm 2007, thủ tướng Shinzo Abe cho thành lập Bộ quốc phòng, (mấy chục năm qua chỉ có lực lượng phòng vệ, dạng như bán quân sự). Nay, 2008, quân đội Nhật có 320 ngàn người, trong đó có 180 ngàn lục quân. Ngân sách quốc phòng năm 2008 của họ là 54 tỉ USD, các năm sau sẽ tăng mỗi năm 10%. Nếu so với TH (non 80 tỉ USD / năm) thì số tiền của Nhật còn thấp, nhưng điều này có vẻ không phải là điểm yếu đáng kể.
(Võ Phú Tâm, Tài chánh TG, 21/2/2008)
* Năm 1992, một chính khách Nhật nói trước báo chí: dân Tàu là bọn ăn lông ở lỗ, (Tàu nhảy lên, chửi bới kịch liệt), qua năm 1993 ông chính khách đó thành thủ tướng Nhật.
CHUYỂN ĐỘNG: Tối 20/8/1991, lệnh giới nghiêm được ban hành tại thủ đô liên bang Nga. Trong đêm đó đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ giữa những người ủng hộ Yeltsin và lực lượng an ninh, gây ra chết chóc. Bộ nội vụ thông báo, hai ngày qua có hơn 20 ngàn người tham gia các cuộc biểu tình. Qua ngày 21/8, kỳ họp bất thường của quốc hội liên bang Nga đã khai mạc với đa số đại biểu là những người ủng hộ B. Yeltsin.
Biết mình đang ở trong thế đi lên, Yeltsin cùng bạn bè tỏ ra mạnh bạo trong các cố gắng lôi kéo quân đội về phía mình, ông ta nói sẽ cố hết sức để nắm quyền chỉ huy các lực lượng võ trang của liên bang… Đến 21 giờ 20 ngày 21/8 tổng thống Gorbachev tuyên bố, ông đã làm chủ tình hình, và bộ trưởng quốc phòng Yazop, chủ tịch quốc hội Lukianov đã tới gặp và thảo luận với ông về nhiều vấn đề hệ trọng, chính biến (cuộc đảo chánh) tháng 8/1991 được coi như kết thúc.
Về sau, nhắc lại những ngày này, người ta cho biết, khi nghỉ dưỡng bệnh ở Foros, dù tình hình chính trị sôi bỏng, M. Gorbachev sống rất ung dung, thanh thản, ông ta đọc sách, xem phim, đi dạo trong rừng. Thực ra, đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài. Gorbachev rất mệt mỏi, bối rối, nhất là việc phải chứng kiến hình ảnh B. Yeltsin mỗi ngày mỗi sáng lên… Trong thực tế, nhóm đảo chánh không có ý định gạt Gorbachev ra khỏi bộ máy lãnh đạo liên bang, chỉ muốn thay ông ta đưa ra những biện pháp cứng rắn để ngăn chặn sự đổ vỡ của liên bang. Còn nhớ, quyền tổng thống Yanayev khẳng định rằng, ban lãnh đạo mới của Nga Sô sẽ tiếp tục thực hiện đường lối do Gorbachev khởi xướng từ năm 1985.
(Hoàng Quang, Thế giới mới, 9/7/1993)
KHÔNG ĐÙA: Tàu thuyền chạy từ đảo Hải Nam (của Trung Hoa) đến Trường Sa (của Khánh Hòa) chỉ mất 126 giờ, nên khi tin Hải Nam thành căn cứ tàu ngầm loan ra nó đã gây nên một chấn động lớn.
Năm 2001, nhiều nước bàn tán xôn xao về việc TH có tàu ngầm. Đến tháng 10/2002 một tàu ngầm TH bị chìm làm chết khá đông quân lính, khiến chuyện này trở thành công khai… Trong quá khứ, các nước ở châu Á ngoài mặt thì niềm nở, thân thiện với TH, nhưng thực bụng lắm kẻ không ưa anh ta, nhất là khi nhìn lại những việc anh ta làm trong 50 năm qua – Qua một thời gian dài nghiên cứu, chấn chỉnh, (sau năm 1949) Bắc Kinh (BK) đã có một lực lượng quân đội vừa lớn vừa tinh. Căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam là một trong các thành tựu đáng tự hào của người Tàu.
Được biết, nay TH có 42 tàu ngầm các loại, trong đó có 12 chiếc chính họ đóng, số còn lại mua của Nga, Anh. Một phần ba số tàu trên trú đóng thường trực tại Hải Nam, là căn cứ quân sự (bao gồm cả không quân) ở gần ĐNA nhất. Vùng hoạt động của lực lượng này hiện giờ là biển Đông, trong tương lai là Ấn Độ Dương. Báo chí TH rao to các ý định trên, không giấu giếm… Kiểu tàu ngầm mới nhất của BK là tàu nguyên tử có trang bị hỏa tiễn JL2 với tầm bắn 9.300 km. Ngoài ra, hải quân TH cón có hơn 50 tàu đổ bộ, hàng trăm tàu nhỏ, 1/3 trong số này cũng nằm tại Hải Nam. Đó là bề nổi, những người hiểu đời không bao giờ tin các thứ tin (trong mọi lãnh vực)Ja được rao ầm ĩ như ca hát – Có điều dễ thấy, không chỉ mấy nước ở gần Tàu như VN, Phi, Hàn, một số nước châu Á khác cũng giật mình, vội bung tiền ra cải tổ hải quân, như Indo, Nhật, Ấn.
(Minh Khiêm, The European, 27/9/2006)
* Xưa nay làm việc gì Tàu cũng vẽ ra rõ ràng, bài bản, rồi các triều đại nối tiếp nhau cứ theo đó mà mần – Sống gần Trung Hoa phải biết Tàu – Biết gì? – Lúc cần, dù kẻ yếu có quỳ dưới chân nó, nó vẫn đánh.
MẤT CÒN: Ôn cố tri tân. Khi những biến động lớn diễn ra, khói lửa mịt mù, đạn bom gầm rú, dễ tưởng mọi thứ sẽ đảo lộn, rối tung, chẳng thấy được đầu mối, không biết chỗ tháo gở ở đâu, chắc sẽ mất hết. Nhưng không phải vậy, rồi đâu sẽ vào đấy. Đã mở đầu, sẽ có kết thúc. – Điều còn đọng lại trong trí nhớ (của người và máy móc) là cái dáng liêu xiêu của mấy gã đồng bóng.