Chưa đầy nửa
tháng sau ngày hòa bình, tôi rời Sài Gòn, trở lại Tây Nguyên làm công tác quy tập
hài cốt liệt sĩ. Đầu năm 1976 thì được giải ngũ, ra Bắc. Ra theo xe của 559, tới
Vinh (Nghệ An) lên tàu hỏa. Sáu năm trước, tiểu đoàn chúng tôi rời Hà Nội hành
quân vào Nam. Chặng đầu đến Vinh được ngồi tàu hỏa. Ngày đó, trong đội hình tiểu
đoàn có 51 người là dân thủ đô. Giờ đây trên chuyến trở về thành phố quê hương
thì chỉ còn có một tôi mà thôi.
Tôi xuống Hàng
Cỏ buổi trưa, 26 tháng Chạp. Một ngày chủ nhật lạnh giá. Mặc dù biết rằng ngôi
nhà ga có từ đầu thế kỷ XX và có kiến trúc rất đẹp này đã trúng bom hồi cuối
năm 1972 mà nhìn thấy đống đổ nát vẫn sững cả người, tôi phải ngồi lại định thần
một lúc lâu trên sân ke. Từ ga về nhà, tôi đi dọc đường Nam Bộ. Trời mưa lất phất
nhưng tôi bỏ mũ cối ra, mở cúc áo ngực, đón nhận căng tràn hương vị của thành
phố thân yêu sau bao năm trời xa cách. Tôi rảo bước theo nhịp tim đập dồn. Qua
chợ cửa Nam, rồi vừa vượt chỗ chắn tàu, tôi khựng lại bởi nghe thấy tên mình ai
đó kêu rú lên gọi. Một người đàn bà từ sau quầy hiệu may nơi mặt tiền nhà 44 nhào
ra chụp lấy quai ba lô của tôi. “Cháu về đấy à, cháu đã về đấy à, cháu ơi!...”.
Rồi từ “cháu ơi”, bà kêu lên, khóc: Kế ơi, bạn con về rồi đây này, con ơi, mà
con thì sao không, không bao giờ nữa… Tiếng khóc dữ dội, cuồng dại mà như đang
lặng ngất. Đấy là bà mẹ của Kế, bạn học một lớp Trường Bưởi với tôi. Nhập ngũ
trước Kế nên tôi không biết rằng Kế cũng đã vào bộ đội… Người trong nhà chạy ra
đỡ lấy bà mẹ. Tôi thì cứ đứng thần ra, không thốt nổi lời nào. Cầm lòng không đậu,
cơn thổn thức rát bỏng lồng ngực.
Nước mắt ngày gặp mặt trước cửa nhà Kế
khiến tôi bất giác thấy sợ khi đứng trước cổng nhà mình. Chỉ riêng cái chung cư
một chục gia đình này cũng đã góp vào cuộc chiến 4 chàng trai, cô gái sàn sàn
tuổi tôi, mà không chừng chỉ duy nhất một mình tôi trở về mà thôi. Linh cảm ấy
khiến lòng tôi se lại, chỉ dám hé cổng sắt ra, rón chân đi ngang qua sân. Buổi
trưa, trong giấc thiu thiu, ngôi nhà lặng như tờ.
Mẹ tôi, cha tôi
không hề hay tin tôi về, đột ngột trông thấy tôi ở ngưỡng cửa, vậy mà không reo
lên, cũng chả thốt kêu lên. Tôi ôm lấy mẹ. Mẹ tôi lặng khóc. “Bảo nó chết rồi,
vừa báo tử tuần trước”, đấy là lời đầu tiên mẹ tôi nói với tôi. Rồi mẹ lại nói:
Còn Hưởng thì báo tử năm ngoái”. Tối hôm ấy, mẹ tôi làm bữa cơm đoàn tụ gia
đình. Tuy nhiên ai nấy nói khẽ. Cửa sổ khép lại. Đèn tắt bớt ngọn. Ngay bên kia
tường là tang tóc gia đình Bảo. Bên kia sân thì bố mẹ Hưởng…
Ngày
hôm sau và nhiều ngày sau đó nữa, lặng lẽ những ông bố, những bà mẹ, người vợ,
người chị trong khu phố đến mừng tôi còn sống và hỏi thăm tin tức người thân.
Nào tôi biết nói gì đây. Tôi là lính Sư 10, trận mạc chủ yếu ở Tây Nguyên mà
các ngã đường của chiến tranh, những nơi anh em bộ đội đã nằm xuống thì khôn
xiết kể, bao la mờ mịt trùm phủ thế gian này. “Cháu có hay tin gì của thằng Đức
nhà bác không, đơn vị nó chiến đấu ở cánh đồng Chum…”, “Thư cuối anh trai em
nói đang ở mặt trận Long An,,,”. Chắc rằn bất kỳ ai trở về sau chiến tranh đều
gặp những câu hỏi như thế nên hẳn là cảm thông được cho nỗi “đau nhói hòa bình”
trong lòng tôi, một kẻ gần như là đã một mình sống sót trở về hồi ấy.
Vì
thuộc diện ra Bắc sớm nhất đơn vị nên tôi mang theo trong ba-lô rất nhiều thư
của các đồng đội quê Hà Nội gửi về nhà. Vui nhất, sung sướng nhất đối với tôi
trong mấy ngày trước Tết là đi rải những lá thư ấy, mang đến cho gia đình của
các bạn tôi niềm hạnh phúc vô bờ.
Hơn
hai chục lá thư, hơn hai chục địa chỉ, khắp trong thành phố, mà đều là do ba
tôi lọc cọc chở tôi đi. Ông nhất định không để tôi đạp xe đạp tự đi lấy một
mình. Hồi đó, Hà Nội đâu có kìn kìn xe máy như ngày nay. Nhưng ba tôi vẫn sợ,
nhỡ... thì...
Đưa
thư tới các gia đình bộ đội cũng là đi dạo phố. Ba đưa tôi đi thửa đôi giày ở
tiệm giày “chui” ngõ Phất Lộc. Loanh quanh dạo phố, cha con tôi đi ăn phở
“chui” trên gác xép nhà họ Cồ phố Hàng Đồng, rồi vào cà phê phin, cũng “chui”,
trong ngõ Gạch. Xưa, ngay trước ngày nhập ngũ, tôi cũng được ba đưa đi ăn phở
và uống cà phê những chỗ ấy. Ngày đó, chiến tranh,
ly biệt, ba tôi buồn, nặng trĩu nỗi âu lo nên âm thầm. Nhưng nay tôi sống sót
trở về mà ba tôi vẫn vậy, ưu tư, mặc dù dĩ nhiên ông vô hạn mừng vui.
Cha
con tôi lặng lẽ uống cà phê, lặng lẽ dạo phố, lặng lẽ rẽ vào chợ hoa Hàng Lược
chọn một cành đào. Ông tránh, không hề nói gì tới chiến tranh, không đả động
hỏi tôi về trận mạc, tấn công Buôn Ma Thuột thế nào, tiến đánh Sài Gòn ra
sao... Ba hiểu tâm trạng tôi đang rất muốn quên đi để được êm ả trong lòng mà
vui Tết. Từ năm 1965, hơn 10 năm chiến tranh, tới Bính Thìn Tết ấy trong gia
đình chúng tôi mới có lại giò hoa thủy tiên, chậu cúc, cành đào. Tôi cũng mua
một bánh pháo song tới giao thừa thì lại thôi, nghe lời ba mẹ, không đốt nữa.
Tiếng pháo quá rộn rã, trong khi biết bao gia đình không thể làm sao rộn rã cho
nổi dẫu đã hòa bình rồi.
Từ
mùa đông 1946. Đằng đẵng ba chục năm trời đau khổ da diết cầu mong tàn cuộc
binh lửa, vậy mà Hà Nội đã chào đón mùa Xuân hòa bình đầu tiên một cách chừng
mực. Tôi cảm nhận thấy thế. Ở đâu tưng bừng hoan hỷ, rầm rộ ăn mừng không biết,
chứ như tôi thấy thì Tết ấy, khắp các phố xá của người bình dân Hà thành, một
bầu không khí trầm tư của những nông nỗi mừng vui lẫn lộn. Trầm tư, bởi có biết
bao nhiêu là niềm mặc tưởng trong lòng khi mùa Xuân tới.
Giao
thừa Bính Thìn, tiếng pháo ran lên nhưng nghe hiền hòa và đầm ấm chứ không dữ
dội đinh tai nhức óc cuồng lên phô trương như tiếng pháo của những cái Tết về
sau. Vừa giã từ vũ khí mà bánh pháo Hà Nội hồi ấy khi lạch tạch nổ tỏa mùi
thuốc pháo nhà quê Bình Đà hiền lành dễ chịu chứ không nồng nặc mùi thuốc đạn
của loại pháo hung tợn những năm sau đó nhập khẩu về.
Có
một điều rất lạ, tôi còn nhớ rõ, là ca nhạc mừng Xuân Tết ấy rất êm đềm. Tết ấy
là Tết hòa bình và cố nhiên là cả Tết chiến thắng nữa, vậy mà từ các loa phóng
thanh của phường phố tới những sân khấu văn nghệ quanh bờ hồ Gươm không nghe
vang lừng lên những khúc quân hành. Tưng bừng chiến công chiến thắng chỉ có bài
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng,
còn thì người ta hát Nối vòng tay lớn,
hát Mùa xuân đầu tiên và nhất là Bài ca hy vọng.
Cũng
rất lạ nữa là các rạp xi-nê dịp Tết ấy không thấy chiếu những phim anh hùng
chiến công này nọ. Ở rạp Kinh Đô gần nhà tôi đang phải chiếu cái phim Lửa hận rừng dừa lòe loẹt và huyên náo,
giáp Tết người ta thay bằng phim Cánh
buồm đỏ thắm. Rạp Tháng Tám và Công Nhân cũng vậy, chiếu bộ phim thơ mộng
ấy. Kim Đồng chiếu Con chim vành khuyên,
tuy là phim thời chiến nhưng ẩn chứa sâu sắc tình yêu hòa bình. Còn cái rạp Bắc
Đô bình dân, náu mình ở gầm cầu, thì moi từ đáy kho phim Đàn sếu bay qua ra chiếu.
Chiều 30 tết, các bạn cũ lớp 10 tới hội ở nhà tôi, cơm tất niên
cùng ba mẹ tôi. Buổi tối cả lớp kéo nhau đi dạo bờ hồ. Trước giao thừa, ra bờ
hồ trẩy hội, đi bộ, ngắm đèn, ngắm người là cái lệ, là nếp quen từ xưa của tuổi
trẻ Hà thành. Chìm trong đông đảo nườm nượp, trong trùng điệp tươi vui, tiếng
nói, tiếng cười, tiếng hát, tôi ngây ngất hạnh phúc. Dường như tới buổi tối đó,
tôi mới thực sự thấu cảm niềm hạnh phúc còn sống trở về và được hưởng hòa bình.
Tôi như trở lại với thời học trò 17 tuổi. Các bạn lớp 10 ngày xưa quây quần ríu
rít quanh tôi, ai cũng muốn đi sát vào tôi, khoác tay tôi. Tôi được thương mến,
được hưởng tình thân ái của các bạn còn hơn là hồi đang đi học với nhau.
Sau
một vòng quanh hồ, cả hội vào Thủy Tạ giữ 2 bàn bên lan can kề mặt nước. Thủy
Tạ mở cửa đến 22 giờ, mà lúc đó đã quá nửa tiếng rồi nhưng do chúng tôi có Lan
là con gái của bác cửa hàng trưởng nên được ưu tiên ngồi nán. Dù trời rất lạnh,
kem thì tê buốt mà xúm xít với nhau vẫn thấy ấm lòng. Chỉ có điều, tới lúc chia
tay để ai nấy về nhà đón giao thừa cùng gia đình thì Lan bật khóc. Nhà của Lan
ở đầu Hàng Gai, cách một đoạn, đầu Hàng Cân là nhà Cường, trưởng lớp 10C chúng
tôi. Cường hy sinh ở Quảng Trị, năm 1972. Vì ai đó nhắc tới Cường khiến Lan
khóc...
Tôi
lặng người. Cho đến lúc ấy tôi mới nhận ra rằng gọi là “cả lớp” hội với nhau ở
đây mà thực ra chỉ có 16 “tên”. Và chỉ duy nhất tôi là con trai. Sĩ số của 10C
chúng tôi ngày thi tốt nghiệp chẵn 40. Mười lăm nữ, 25 nam. Tất cả
bọn con trai đều đã lên đường ra trận, sao bây giờ chỉ có một tôi có mặt ngồi
đây cùng bọn con gái?
Được
sống và hưởng hòa bình là hạnh phúc tột đỉnh đời người song niềm hạnh phúc ấy
lại đồng thời là nỗi đau thương tột cùng. Tôi nghĩ về đời mình, về cuộc đời của
thế hệ mình như thế, từ buổi tối ấy, khi đoàn tụ sum vầy bên hồ Gươm với phần
còn sống sót của lớp học ngày xưa ./.
(Người lao động Tết
Ất mùi – 2/2015)