Đoàn Việt
Hùng quê ở Phú Yên, học sư phạm Cần Thơ, ra dạy tại Gò Công (1971), và lập gia đình
với một “nhạn trắng” Gò Công (1973). Giai đoạn dạy học cũng là thời anh viết
mạnh. Truyện ngắn của anh xuất hiện thường xuyên (dưới bút danh Nguyễn Lệ Uyên)
trên các tạp chí văn chương Sài Gòn lúc đó. Sau giải phóng, anh chuyển qua viết
báo, viết biên khảo khá lâu... Năm năm gần đây, anh đã xuất bản 4 tác phẩm, gồm
2 tập biên khảo, 2 tập truyện ngắn. Mưa trên sông Đăkbla là cuốn mới
nhất.
Tập sách
không dày, 10 truyện, in kiểu chữ đẹp, trình bày trang nhã, bìa đẹp. Chúng ta
thử điểm qua vài truyện tiêu biểu.
MỘT ÔNG
GIÀ sống lâu năm trong Nam, lúc nào cũng nhớ về miền quê Phú Yên của mình, càng
già càng nhớ cồn cào. “Ông có một nỗi nhớ khôn nguôi: nhớ quê, nhất là khi
ngọn gió chướng thổi, lúc hiu hiu, lúc mãnh liệt như bàn tay vô hình bóp thắt
tim ông từng cơn.” Gặp người bạn cũ, ông ngủ với bạn một đêm, hàn huyên, ôn
chuyện xưa, để đỡ nhớ. Gặp đứa bé cùng quê vào bán vé số, ông mừng, hỏi nó đủ
thứ, và cho nó tiền. Ông say sưa nhắc đến những địa danh Đông Phước, Bầu Sấu,
cầu Chùa, Phú Ân. Cái vùng quê xa xôi ấy có gì làm ông nhớ? “Mùa gió nam non
hất tung những bông mướp vàng lay bay chấp chới, khi gió nam cồ cát cuộn bốc
tận trời cao, cát bay mịt mờ suốt dãi sông trong vắt. Ngọn gió hung bạo thổi
tốc mái tranh, lật chổng những ổ chim dồng dộc.” Đều là hình ảnh, hoài niệm
về cố hương của dân quê... Nhớ về Phú Yên là nhớ cầu Đà Rằng, tháp Nhạn, núi
Chóp Chài, và Tuy Hòa, cái thành phố nhỏ “đi 5 phút đã về chốn cũ.” Cũng là nhớ
về con sông cần cù mang phù sa bồi đắp cho vựa lúa lớn, sông Ba.
Mai đành
xa sông Ba tóc dài
Tuy Hòa tình yêu anh gởi lại.
(Hoàng Nhuận Cầm)
Những
trang dày đặc tình cảm mật ngọt, những dòng gan ruột dành cho quê mẹ. (Nhớ).
CHUYỆN VỀ
người phụ nữ vướng phải cuộc hôn nhân như một cú lỡ lầm tai hại. Đời sống vợ
chồng quá ngắn, 29 tháng. Người chồng mau chóng lộ rõ chân tướng, là kẻ bê tha,
độc đoán. “Buổi tối, hắn trở về nhà với mùi rượu thịt, mùi đĩ thõa trộn lại
thành một thứ mùi lộn mửa. Hắn đổ vật lên nệm cùng với những gì từ trong bụng
hắn trào ra. Nàng chết đứng giữa căn phòng tanh tưởi.” Người phụ nữ thấy
mình bị phỉnh phờ, lừa mị. Chị lún sâu trong sự đày ải, khổ đau. Bao lo sợ,
thất vọng, dằn vặt kéo dài, triền miên. Cuộc kết hợp mới 29 tháng, mỏng manh.
Sau cùng, không còn chịu đựng được, chị bỏ đi, tìm cách giải thoát, cởi trói
cho thân phận mình. “Chị không biết mình sẽ đi đến đâu, trôi về xứ nào. Và
cứ thế, chị bước trên con đường đất ngập đầy nước, bên tai nghe ù ù tiếng gió,
tiếng mưa đổ, và cả tiếng lòng tan hoang của chị nữa.” Sau nhiều ngày đi,
mệt nhoài, kiệt sức, chị lạc vào khu rừng ma quái, gặp những tượng đá hình người,
chị sợ hãi, muốn quay về, nhưng đã muộn... Rồi chị cũng thành đá... Như vở bi
kịch ngắn, giá băng, xám ngoét. Chị là Tô Thị kiểu mới, hoá đá nhưng không
trông chồng! (Người đàn bà chết trôi).
SAU TRẬN đau
nặng, anh Hậu lui về ở ẩn trong một căn nhà cuối hẻm. Anh đọc sách báo, làm vườn,
trồng rau, và nuôi chim... Anh không mua chim quý, nuôi toàn những loại xoàng,
tầm tầm, cốt để có việc làm, giết thì giờ. Bạn bè thấy lạ, có người chê anh
không có mắt thẩm mỹ, chẳng biết thưởng thức cái đẹp. Anh bỏ ngoài tai. Đây chỉ
là thú chơi phụ. Anh có cách nghĩ của anh. “Vào rừng sâu, leo lên tận núi cao
nằm gối đầu lên rễ cây mà lắng nghe chim hót. Giữa mênh mông đại ngàn của rừng,
tiếng xào xạc của gió núi, âm thanh róc rách của suối sâu, tiếng chim hót nghe
phiêu phiêu ngọt ngào. Những âm thanh ấy cứ lan tỏa khắp đất trời, thấm sâu vào
tận những vi ti huyết quản, lan xuống đầu ngón tay, ngón chân, làm rung rinh
những chân tóc.”
Bầy chim
anh Hậu nuôi cũng lạ. Chúng ở lâu với người, được cho ăn uống, đâm ra dạn dĩ, lười
nhác, quen với thói hưởng thụ. Anh không đóng cửa lồng, chúng vẫn ở, không bỏ đi.
Có điều, no nê quá, mập mạp quá, chúng không hót được. Không hót thì còn gì
chim? “Anh Hậu chun môi huýt sáo, con chào mào cất giọng khàn khàn. Anh bập
bập môi, chú cu cườm gật gù nhưng không ra tiếng. Khi anh vỗ tay bồm bộp, tất
cả các chú chim của anh kêu khào khào trong cổ họng, nghe thảm thương.” Một
cách tiêu khiển ít tốn kém, hơi kỳ quặc. Bạn anh nhận xét: đây là hai mảng của
cuộc đời, hai mặt của con người. Nó như bức tranh cũ bợt bạt, lam nham, như một
nghịch lý buồn thảm. (Bầy chim trước hiên nhà).
BA CÔ gái
trẻ lên dạy ở một ngôi trường miền núi, tình nguyện giam cầm tuổi thanh xuân nơi
thâm sơn đìu hiu. Bốn năm sống xa ánh sáng văn minh, ăn uống kham khổ, thiếu
thốn mọi bề; cuộc sống diễn ra giống những hoạt cảnh về một nhóm người ở trên
hoang đảo, bị phủ trùm trong sương mù.
“Mâm cơm
chiều trở nên lạnh ngắt. Con mèo mướp ngồi chồm hổm liếc nhìn các bà chủ không
hiểu cớ sự, kêu mấy tiếng meo meo rồi bỏ đi nơi khác. Thời gian cứ lếch thếch
bay qua đầu ba cô giáo bằng những chuyện không đâu như vậy, nó như chiếc kềm
nhéo nhẹ vào da thịt, không trầy xước nhưng cũng gợn nhói lên chút đau tê.”
Truyện đề
cập những chuyện có vẻ bình thường nhưng xảy ra trong hoàn cảnh đặc biệt, nên
nó nổi lên đậm nét. Những chi tiết về sinh hoạt của các cô giáo viết nhẹ nhàng,
không bi thảm hóa vấn đề, nhưng vẫn nói lên được nhiều điều. Các cô bị dồn vào
chân tường. Họ không sợ khổ, không muốn rời trường, bỏ học trò. Họ sợ tuổi già,
và sự vô tâm. Thấm đẫm những nỗi niềm. Một chút tàn nhẫn, khá nhiều xót xa. Người
ta thương các em học trò chân đất, thương cha mẹ chúng... Ba cô giáo về xuôi. “Trước
mắt họ là dãy núi xanh đậm nhô lên phía sau những ruộng bắp, những cánh đồng
mía ngút ngàn kéo theo con sông nhỏ lượn quanh. Nhánh sông nhìn thấy từ bến nước
sẽ hòa vào dòng sông lớn, dòng Krông Pa trôi xuôi ra biển, mang theo mùi hương
núi rừng, mang theo giấc mơ khắc khoải.” Đoạn kết khiến người đọc xúc động.
Không ai muốn sự việc diễn ra như vậy. Nó không có hậu, nhưng hợp lý, chẳng thể
làm khác -
Đời người cầm bút, nếu viết được ba truyện như thế này thì khỏe, khỏe quá. (Nơi
không chỉ có khói núi).
CÔ GÁI kể
chuyện Tuy Hòa cho bạn trai (người Nam bộ) nghe. Cô kể dài, tỉ mỉ. Chuyện về
những thắng cảnh, sông Ba, cầu Đà Rằng, làng hoa Ngọc Lãng. Chuyện về ăn uống,
các đặc sản: bánh tráng, sứa, cá thài bai. “Anh ở đồng bằng thì làm gì biết
con sứa? Nó là sinh vật sống ở biển. Mẹ mua loại sứa chân, mang về chần nước
sôi, trộn với rau thơm, chuối chát xanh, đậu phộng rang, da heo xắc nhỏ, thêm
chanh ớt, xúc vào chén ăn với bánh tráng nướng bóp nát. Nó ngon không thể chê
vào đâu được.” Chuyện gió Tuy Hòa, thứ gió vừa dữ dội vừa lãng mạn. Chuyện
mùa lụt, và những kỷ niệm tuổi thơ.
Tình yêu
quê hiển hiện qua lời kể, trên từng dòng chữ. Dường như cô gái yêu mọi thứ của
Tuy Hòa. Đây là những trang thư, nhưng viết chăm chút như nhật ký, đầy ắp nhớ
nhung, thương mến. Cô tự hào, tô hồng tí chút cho xứ sở mình. “Thành phố của
em đẹp mê hồn, rực rỡ trong nắng sáng trong vắt. Bên này là chân núi dựng đứng,
bên kia thì xoãi ra gần đụng quốc lộ... Con sông Chùa ngắn, nước ửng xanh màu
ngọc bích, vắt ngang qua nửa ngực thành phố in hệt nét chì tô xanh quầng mắt,
như tấm khăn của người thiếu nữ vắt qua vai thả rơi lưng lửng xuống ngực.”
Người bạn
trai muốn cùng về để biết quê bạn, nhưng cô gái thấy chưa phải lúc. Dù vậy,
chắc thế nào sắp tới anh cũng được về. Nên cô gái chuẩn bị sẵn cho bạn mớ hành
trang, cung cấp cho anh cuốn “cẩm nang” Phú Yên, phong phú những đặc điểm về địa
lý, thời tiết, lịch sử, tập tục, thật chí tình, dễ thương, hồn nhiên.
Truyện
viết dưới hình thức những bức thư, nếu đem đọc trong chương trình “Đọc truyện đêm
khuya”, bằng giọng thủ thỉ, sẽ gây được nhiều xúc cảm. (Về Tuy Hòa).
CÓ GÌ cần
góp ý ở đây? Cũng có! Nhà giáo quen sống ngăn nắp, mực thước. Nhà văn gốc giáo
viên thường mang đặc tính ấy vào trang viết. Có những chỗ, những tình huống nếu
tác giả tăng thêm một ít “nhiệt lượng”, ít nét đột biến, thì có lẽ truyện sẽ
mới hơn, đậm đà hơn.
Đoàn Việt
Hùng không lớn tuổi hơn tôi, nhưng tôi luôn coi anh là anh, vì Hùng điềm đạm,
chín chắn; văn anh cũng thế, kiệm lời, cô đúc. Cầm cuốn truyện mới của anh trên
tay, tôi mừng. Hơn 40 năm có mặt trên văn đàn (lúc dày, lúc thưa) là may mắn,
hạnh phúc. Tôi mừng cho anh, cũng như đã mừng cho mình. Còn các việc khác, như
sức lan tỏa của truyện tới đâu, tuổi thọ của sách thế nào, là chuyện về lâu về
dài, chẳng có gì phải lo nghĩ ./.
Văn
Tánh
Mấy năm nay các bạn Nha Trang tặng tôi
nhiều sách, nhưng tôi không giới thiệu ai – Tôi đã viết về V. Hồng 2 bài, T.H.
Ân 2 bài. Nay lại viết về anh – Đã gửi cho Nha Trang, nhưng tôi sợ các bạn ấy
bực – chưa chắc đăng – Nếu họ chọn thì sẽ đăng vào tháng 7, tháng 8.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét