Hạnh
bán cháo vịt và cà phê “kho” trên hè phố, dưới bóng một cây bàng lớn, khách
quen gọi là quán Cây bàng… Ở lớp học tiếng Anh ra, hơn 10 giờ khuya, Thuần và
Lạc ghé lại, Cây bàng vẫn còn khá đông khách. Không chờ gọi, Hạnh bưng đến hai
tô “ấm bụng”. Giá phải chăng ăn ấm bụng!
“Sao
về khuya thế?” Hạnh hỏi.
“Bận
làm bài kiểm tra.” Lạc đáp.
Hạnh
ngồi xuống cạnh Lạc. Lạc bảo:
“Thứ
bảy đi Ba Hồ chơi.”
“Đi
với ai?”
“Với
Thuần và Như Quỳnh.” Lạc chỉ vào Thuần.
“Em
bận, tiếc quá.”
Lạc
nắm tay Hạnh.
“Em
thu xếp nghỉ một bữa, nên đổi gió cho người khỏe ra.”
Khách
gọi, Hạnh đến tính tiền. Hai ông khách đi, bốn cô học sinh tới ngồi vào bàn.
Quãng đường này yên tĩnh, ít xe máy, người đi bộ đông. Lát sau, Hạnh lại đến
ngồi bên Lạc.
“Em
bán ở đây từ bao giờ?” Lạc hỏi.
“Sáu
năm. Sao, anh?”
“Hỏi
cho biết vậy thôi… sáu năm, khá lâu.”
“Lâu,
nên quen và thân.”
“Nếu
một ngày nào đó em không còn bán…”
“Thì
tìm một nghề khác… nhưng chắc khó rời bỏ chỗ này.”
“Có
thể phải bỏ, như thành phố cấm bán chẳng hạn.”
Hạnh
giơ nắm đấm, dọa Lạc:
“Anh
đừng nói trước, xui đấy… Còn lâu mới cấm, làm sao hết người nghèo.”
Hạnh
chưa hề nghĩ đến sẽ có ngày mình không còn đứng bán ở đây. Từ một công việc
tình cờ – của một người bạn tặng không – nay cái quán nhỏ đã thành một chỗ dựa
cứng cáp của Hạnh, là nguồn thu nhập chính, nuôi vững chắc bốn miệng ăn… Hàng
bàng đứng trầm ngâm trong sương mù sớm mai. Những đêm mưa ướt át lạnh lẽo vắng
khách. Những câu chuyện trên trời dưới đất của mấy ông khách vui tính… Tất cả
các thứ đó đan xen, quyện vào nhau tạo nên nét riêng của quán “giá phải chăng…”
“Cà
phê không, anh?” Hạnh hỏi, Thuần lắc đầu.
“Bỗng
dưng anh muốn nói về những điều gì đó.” Lạc nói.
“Muốn
nói?” Hạnh có vẻ ngạc nhiên.
“Ờ,
nhưng chẳng rõ là nói gì!”
“Lạ
vậy, bí hiểm!” Hạnh cười.
“Và
muốn làm một chuyện gì đó.”
Thuần
nói với Hạnh:
“Em
đừng nghe Lạc, chẳng hiểu sao mấy bữa nay anh chàng bỗng đâm ra nói nhiều. Hôm
kia hắn xung phong đọc một đoạn văn Anh dài, diễn cảm, được cô khen!”
Hạnh
hỏi:
“Muốn
làm, như làm gì?”
“Cũng
chẳng rõ… bụng dạ cứ nao nao, xốn xang vô cớ, như đợi chờ mong ngóng điều gì.”
“Đi
Ba Hồ là sáng kiến của ai?” Hạnh hỏi Thuần.
“Của
Như Quỳnh.”
“Để
em nghĩ lại, mai trả lời… Hơi khó, biết nhờ ai coi giùm quán đây.”
Ngẫm
nghĩ giây lát, Hạnh đổi ý:
“Được
rồi, nhất trí, thứ bảy đi chơi! Mấy chuyện râu ria để tính sau.”
Nhưng
cuộc du ngoạn ấy không diễn ra. Hai hôm sau, thứ sáu – ngay trước “ngày N” –
Lạc chết, trong một tai nạn giao thông.
Hai
tháng sau, Thuần cưới Như Quỳnh. Bảy tháng sau vợ chồng Thuần từ giã Nha Trang,
dọn đi Cần Thơ, làm ăn sinh sống luôn trong đó. Tất cả đều là chuyện bất ngờ.
Từ nhỏ đến giờ Thuần chưa biết Sài Gòn, chẳng mấy khi nói đến hai tiếng “Cần
Thơ”, không buồn để ý xem nó nằm nơi nào trên bản đồ, thế mà… “Trên đời chuyện
gì cũng có thể xảy ra,” câu nói nửa đùa nửa thật này hình như thường đúng?
<>
Tám
năm qua nhanh.
Một
ngày mùa hạ mát mẻ Thuần về thăm Nha Trang.
Thuần
ngồi trong một quán cơm trên đường phố có nhiều cây bàng ngày trước. Nay đường được
mở rộng, lớn gấp hai, nhà cửa đều “lên đời”, thành lầu hai, ba tầng, không còn
căn nhà trệt nào. Hàng bàng biến mất, thay vào đó là những cây hoa sữa, còn nằm
sát mặt đất… Thuần nhìn sang bên kia đường, chỗ quán cháo vịt ngày xưa. Giờ đây
muốn thấy nó phải nhắm mắt lại, huy động trí nhớ, hình dung ra. Cuộc sống thay
đổi từng ngày, như người ta thường nói. Ngày qua, giờ qua, thời gian đều đặn
trôi đi, không dừng lại một giây, đó là một trong những điều kỳ diệu trên đời!
Kỳ diệu, đúng vậy. Sự xoay vần, chuyển dịch, như hóa chất tẩy rửa bộ mặt quả
đất. Nó khiến con người phải hoạt động, tiến bộ liên tục, không đứng yên, nếu
không muốn trở nên thoái hóa, cằn cỗi.
Như
chiêm tinh gia, Lạc đã nói: có ngày Hạnh sẽ không còn bán cháo vịt dưới bóng
cây bàng nữa. Nói thế, do ngẫu nhiên, hay Lạc linh cảm, thấy trước? Chắc ngẫu
nhiên, đang lúc buồn, thuận miệng thì nói. Nếu giỏi, Lạc đã biết cách tránh cái
tai ương sắp giáng xuống đầu mình.
Xe
máy chạy dày đặc trên đường. Xe và người. Người quá đông. Có cảm tưởng như
thiên hạ không chịu nỗi sự bức bối tù túng trong các căn phòng hộp nhỏ hẹp, túa
cả ra diễu hành giữa phố cho thoáng đãng!… Lạc mất đã gần chín năm. Chín năm,
thật lâu, biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra trong từng ấy ngày. Chỉ người chết
là không thay đổi, chắc thế! Thành người thiên cổ. Mười, mười chín, hay năm
mươi, tám mươi tuổi cùng thiên cổ như nhau. Sống thì bon chen, ganh đua, tranh
giành, len lách, phấn đấu, chụp giựt, chết thì được quàng cái vòng thiên cổ!
Quán
cơm này mới tinh, nhà mới, bàn ghế mới, những cô nàng tiếp viên trẻ xinh. Các
cô ăn mặc đẹp, đi đứng điệu bộ, khác xa cô Hạnh cháo vịt “một tô ấm bụng”!
Thuần chơi trò làm người nước ngoài. Từ lúc vào quán anh chỉ ra dấu, chưa nói
tiếng nào. Bây giờ Thuần gọi tính tiền, anh giả bộ trợn mắt nhíu mày, nói tiếng
Anh với hai cô tiếp viên, (thứ tiếng Anh có sự hỗ trợ đắc lực của hai tay.) Anh
“boa” hết số tiền lẻ khá nhiều, hai cô gái mừng, cười rạng rỡ. Lúc Thuần ra đến
cửa, một cô nói: “Thằng này chắc dân Thái Lan!” Cô kia bảo: “Không phải, Thái
đen hơn, đây là Tàu! Nó không uống rượu mà sao giống như gã say!”
<>
Thuần
đến thăm Hạnh. Giờ Hạnh bán tại nhà. Nhà, quán đều mới. Nhà kiểu hiện đại, mặt
tiền hẹp, dài như toa xe lửa. Quán trang trí hoa hòe, cầu kỳ, bảng hiệu “Hạnh –
cháo vịt – nem nướng” lớn đến chướng mắt. Nem nướng thay cho cà phê kho… Thuần
ra nhà sau chào bà Quảng, mẹ Hạnh. Bà Quảng mù, nặng tai, người phốp pháp, da
dẻ hồng hào. Bà nhận ra Thuần ngay: “À, cậu Thuần, chồng cô Như Quỳnh.” Bà nói
nhiều, vui vẻ. Bà bảo, có khách đến thăm mừng lắm, bởi tối ngày nằm co trong
cái hang này, quẩn quanh, mệt mỏi. Trò chuyện với bà hơi vất vả, vì bà nghe
tiếng được tiếng mất. Hỏi thế này bà trả lời thế kia, bà nói và nói, theo lối
suy luận, phỏng đoán.
“Cô
Quỳnh giờ thế nào, làm gì?”
“Dạ,
Quỳnh khỏe. Cô ấy đã nghỉ dạy, nay trông coi sạp trái cây cho bà già cháu.”
“Vậy
là mừng, dạy cũng nhàn, nghề đó hợp với phụ nữ, có đồng ra đồng vào… Con Hạnh
nay đã lớn, quá lứa, mà cứ ở vậy, hễ dì nhắc chuyện chồng con là nó gạt phăng.”
“Dạ,
chắc Hạnh chưa gặp người…”
“Nó
chờ gì, chờ ai… năm tháng đâu có dừng lại theo ý ta.”
“Gần
đây Hạnh có quen ai không, dì?”
“Rồi
sẽ thành gái già… tuổi tác chất chồng.”
“Vợ
chồng là chuyện duyên số, dì ạ.”
“Cháu
lựa lời khuyên bảo nó, không thể ở một mình mãi được… chim chóc còn có đôi có
bạn.”
“Dạ.”
“Dì
thế này khác chi cái áo rách… mai đây dì xuôi tay về với ông bà, thì nó sống
thế nào.”
Thuần
ra phòng khách, nói chuyện với Hạnh. Một dĩa nem nướng đầy vun chờ hai người.
Hạnh đẫy đà, nét mặt đăm chiêu, dáng chậm chạp hơn trước. Và, đương nhiên, già
hơn trước. Ăn nem, nên chuyện mở đầu là nem.
“Anh
đã thành dân Cần Thơ rồi. Có lúc nào anh nhớ về Nha Trang?”
“Nhớ
luôn. Đi xa, nhớ nhiều… Em biết không, cách nơi anh ở sáu cây số có một thị
trấn nhỏ sản xuất nem nướng nem chua nổi tiếng. Khắp các tỉnh quanh Cần Thơ
chẳng nơi nào có món đặc sản này. Nó ngon, giống hệt nem Ninh Hòa mình. Thật
tình cờ, kỳ lạ. Gần như chủ nhật nào anh cũng đi ăn nem, nem Cái Răng.”
“Cái
Răng?”
“Trong
đó có nhiều địa danh lạ tai: Lấp Vò, Gò Quao, Tắc Cậu, Giồng Trôm, Trà Nóc, Cái
Vồn, Cầu Kè…”
“Đi
xa biết nhiều, thích nhỉ.”
“Nước
ta dài, rất dài… Cái Răng cách Cần Thơ không xa. Nó cũng giống các xã, huyện
quanh vùng. Sông nước, kinh rạch, đồng ruộng bao la, vườn cây trái sum suê, dưới
sông tắc ráng (xuồng máy) chạy dập dìu như xe máy ở đây… chỉ nem chua nem nướng
là khác.
“Anh
vào Nam đã tám năm?”
“Tám
năm… Lạc mất non chín năm rồi… khách cũ của Cây bàng có đến đây ăn không?”
“Có,
nhưng ít lắm, anh ạ.”
“Có
lẽ do xa, trái đường.”
“Môi
trường, khung cảnh hai nơi trái ngược nhau… Em thường tránh, không muốn nhìn
lại chỗ quán cũ. Mấy cây bàng… anh Lạc…”
“Hồi
đó vui thực… ê, cô chủ, hai ly đen, hai tô ấm bụng!” Thuần cười.
“Cây
bàng khác ở đây nhiều thứ, nó nhộn hơn, trẻ hơn, bụi hơn… Chắc má em lại nói về
chuyện chồng con của em?”
“Phải.”
“Cụ
hơi nghễnh ngãng, gặp ai cụ cũng nói chuyện ấy.”
Hai
người ăn hết nửa dĩa nem.
“Chừng
nào anh đi?”
“Khoảng
bốn, năm hôm nữa.”
“Mai
mốt anh đưa Như Quỳnh và các cháu đến đây chơi.”
“Anh
quên ngày Lạc mất.”
“Mùng
4 tháng sáu, âm lịch.”
“Nhớ
rồi, những con số chẵn… Cái chết, thực không hiểu nỗi.”
“Nó
như sợi dây đứt phựt, như mất điện… nó hiển nhiên, nhưng hết sức mù mờ, vô lý…
Mỗi khi cúp điện là em nghĩ ngay tới nó, em nói: tắt phụt, cứ như chết!”
Hạnh
vẫn còn nhớ Lạc.
“Em
sắp quên Lạc, anh ạ. Nhiều lúc, suốt mấy tháng dài em không nhớ anh ấy… Em muốn
quên. Nhớ cũng chẳng ích gì!… Em nhét album ảnh của Lạc xuống tận đáy tủ!”
“Không
còn ở đây thì dễ quên.”
“Hai
năm nay em không đến nhà Lạc.”
Người
ta nói: biết ơn là đặc tính của loài người. Còn biết nhớ, nhớ lâu có phải cũng
là đặc tính? Nhưng Thuần mong cho Hạnh quên cái dĩ vãng buồn. Nhớ như thế quá
đủ… Không thể kéo lại tháng ngày đã qua. Người chết không sống lại được, trong
khi người sống vẫn phải sống. Sống khó hơn chết, khó hơn rất nhiều, phải không?
./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét