Phía
sau thành tích xuất khẩu gạo của Việt Nam là gì? Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Bùi Bá Bổng nói: “Nông dân là những người nghèo, những
vùng chuyên canh trồng lúa là những vùng kém phát triển”. (Người lao động
13/6/2011, trang 3).
YẾU
THẾ: Là người khởi xướng đổi mới, nhưng nông dân lại ít được hưởng lợi nhất
từ đổi mới. Nông dân nghèo nhất xã hội, mà việc giải quyết giảm nghèo lại chưa
gắn liền với phát triển kinh tế nông thôn, cho nên chưa bền vững, vẫn có thể
nghèo lại. Trong khi ấy, chúng ta lại có xu hướng giải quyết các vấn đề xã hội
nông thôn bằng các biện pháp thị trường, mà ít quan tâm đến giải quyết các vấn
đề xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, bảo hiểm thiệt hại do thiên tai và thị trường
biến động, bảo hiểm xã hội – Nông dân thiếu việc làm phải ra thành thị làm thuê
với giá lao động thấp, lại bị đối xử như công dân loại hai, mặc dù chính họ là
động lực chủ yếu của đổi mới.
Nông dân bị thiệt thòi nhất về quyền lợi,
là bộ phận nhân dân yếu thế nhất xã hội, bởi vì không có nghiệp đoàn nông dân.
Đã không có quyền mặc cả trên thị trường, không có thương nghiệp công bằng,
nông dân còn thiếu chủ quyền về đất đai, vì việc lấy đất của nông dân hầu như
chỉ là việc của nhà đầu tư với chính quyền, nông dân bị mất đất mà không có ai
bênh vực.
(Trần Lê, An ninh Thế giới
(ANTG), số tết Kỷ Sửu, 1/2009, tr.12).
KHÔNG
BIẾT VÀ KHÔNG THỂ: Trong khi các nhà quản lý Việt Nam (VN) hào hứng về
thành tích xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới với 6 triệu tấn trong năm 2009,
thì các chuyên gia quốc tế bày tỏ quan ngại về cuộc sống quá nghèo của người trồng
lúa VN, trong lúc người kinh doanh lúa gạo thì giàu sụ.
Tại sao cùng một chủng loại gạo nhưng gạo
Thái Lan luôn được bán giá cao hơn gạo VN hơn 100 USD mỗi tấn? Câu trả lời thật
đơn giản: “Vì họ biết cách tạo ra thương hiệu gạo với khách hàng thế giới”.
Bất kỳ ai cũng có thể nhẩm tính được, với
6 triệu tấn gạo xuất khẩu thì VN đã đánh rơi 60 triệu USD, một con số không nhỏ…
Điểm yếu kém nhất của ngành kinh doanh lúa gạo VN: Không biết đâu là đặc điểm nổi
bật của gạo mình, nên không thể xây dựng được thương hiệu mạnh để hấp dẫn người
tiêu dùng. Vì thế mới có chuyện thế giới chỉ biết đến gạo VN với thương hiệu “gạo
trắng” chung chung nhạt nhẽo!
Giá như những người kinh doanh lúa gạo ở
nước ta giảm bớt sự “quan tâm” làm giàu trên lưng người trồng lúa, để quan tâm
nghiên cứu xây dựng thương hiệu cho gạo VN thì nông dân ta đã không phải khổ
như bây giờ.
(Trường Mạnh, Tuổi Trẻ
cuối tuần – TTCT – 6/12/2009, tr.13)
KHOẢNG
CÁCH: Bà Lis. R. Rosenholm – Phó đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam – nói: “Việc
chuyển hình thức sử dụng đất với giá đền bù thấp so với giá thị trường khiến những
người nông dân càng nghèo, trong khi các nhà đầu tư được lợi. Rõ ràng việc này
tạo khoảng cách ngày càng tăng giữa người giàu và người nghèo”.
(Sài Gòn tiếp thị – SGTT
– 26/11/2010, tr.26)
RẺ
MẠT: Chính quyền địa phương không quan tâm đến lợi ích của nhà nước, không
chú trọng đến lợi ích của người dân mà chỉ lo cho doanh nghiệp. Vậy tại sao họ
chỉ lo cho doanh nghiệp? Có điều gì khuất tất bên trong? Thật đơn giản, nhà đầu
tư có lợi thì quan chức được hưởng. Hay nói một cách thẳng thắn là doanh nghiệp
và quan chức địa phương đã móc ngoặc, đi đêm với nhau để kiếm chác, làm giàu
trên lưng người nông dân.
Một vấn đề nữa không thể không nói, là
việc ban hành các chủ trương, chính sách liên quan đến đền bù đất đai, giải quyết
thất nghiệp chưa nhất quán và nhiều khi không phù hợp với hoàn cảnh địa phương.
Đã thế, chính sách hay thay đổi, mỗi địa phương lại áp dụng theo kiểu của mình
cho nên người dân không yên tâm, và nhiều khi người tốt (nhận tiền đền bù trước,
di chuyển nghiêm túc) thì lại bị thiệt so với những người gan lì… Không ít nơi
đất đai dân đã ở, đã canh tác từ bao đời nay bị thu hồi với giá rẻ mạt. Còn
doanh nghiệp, chỉ cần san ủi sơ sơ, làm đường cống, đường dân sinh là bán giá
cao gấp hàng chục lần.
Một nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến
khiếu kiện tập thể đó là sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, điều hành của cán bộ
chính quyền địa phương, cộng thêm vào đó là thái độ vô trách nhiệm, quan liêu,
vô cảm đối với người dân của những quan lại đời mới này. Họ không chỉ yếu về
trình độ mà còn yếu về trách nhiệm trước dân. Làm việc gì, họ cũng nghĩ cái lợi
cho bản thân mình, đồng thời lợi dụng chức vụ để kiếm chác, gây khó khăn, phiền
nhiễu để buộc người dân phải cầu cạnh, biếu xén.
(Thiếu tướng Trịnh Xuân
Thu, ANTG số 601, 1/11/2006, tr.8).
TA
VÀ THÁI: Việc xuất khẩu gạo của chúng ta năm nào cũng có vấn đề. Những điệp
khúc “trúng mùa rớt giá”, giá lúa giảm do thu hoạch rộ, giá lúa giảm do doanh
nghiệp kẹt vốn, năm nào cũng vang lên.
Năm nay, khi mà thế giới thiếu lương thực
trầm trọng và giá gạo tăng đột biến, nông dân Thái Lan hưởng lợi nhưng nông dân
VN lại bán gạo với giá thấp và có lúc không có người mua.
Nông dân Thái được lợi vì: chính phủ
Thái trực tiếp mua lúa của nông dân với mức giá bảo đảm có lời cho nông dân, sau
đó tùy thời điểm sẽ bán lại cho các công ty xuất khẩu. Trong khi đó chính phủ
VN giao việc xuất khẩu gạo cho Hiệp hội Lương thực. Việc xuất khẩu gạo của hiệp
hội này có nhiều tầng lớp trung gian, nên không thể bảo đảm chất lượng gạo xuất
khẩu, và làm tăng chi phí.
(Huỳnh Kim, NN, 19/10/2008,
tr.10)
LÀM
XONG: Trong hơn 30 năm qua, chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản
phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên (ở Tây nguyên) trên cái mái nhà
sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ
đang bắt đầu moi móc dưới lòng đất – Cao su tuyệt đối không phải là rừng, nó
không sinh ra cơ chế nước mội, cho nên không nói: phá rừng rồi sẽ trồng cao su
thế vào đó – Các khu công nghiệp của công
nghiệp hóa và hiện đại hóa càng không phải là rừng.
Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không
đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn
hăng lắm trong việc chặt phá nốt những chỗ còn lại, và đang bắt đầu một công cuộc
đào bới hung dữ.
Cần chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên
ngay bây giờ. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu
phát triển khác. Hãy bắt đầu một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự
nghiệp to lớn: trồng lại rừng Tây Nguyên.
(Nguyên Ngọc, Thời báo
Kinh tế Sài Gòn, 11/2/2010, tr.14).
ĐÀO
BỚI: Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì tình trạng sử dụng đất
trái pháp luật, sai mục đích, để hoang hóa lãng phí là rất nghiêm trọng. Vẫn
còn 2.455 cơ quan, tổ chức, với hàng chục ngàn dự án treo để hoang hóa tới
250.862 hecta đất, nguồn tài nguyên quý giá khổng lồ này đã bị lãng quên trong
nhiều năm. Hiện còn tới 3.311 cơ quan, tổ chức sử dụng đất không đúng mục đích,
cho thuê, chuyển nhượng trái pháp luật với diện tích 25.587 hécta.
Về tình trạng cấp phép khai thác khoáng
sản tràn lan: Từ khi phân cấp cho các địa phương trong quản lý, cấp phép, thì
các địa phương đã cấp 4.200 giấy phép khai thác khoáng sản các loại. Tình trạng
khai thác khoáng sản hiện nay được các chuyên gia tổng kết cô đọng trong 6 chữ:
“loại cấp phép thả sức đào”. Với 4.200 giấy phép khai thác sẽ có ít nhất 4.200
điểm đào bới khắp các vùng miền trong cả nước, để moi đủ loại tài nguyên khoáng
sản trong lòng đất đem đi xuất thô, hiệu quả kinh tế chẳng được bao nhiêu.
(Nguyễn Thiêm, VN 9/11/2011, tr.9)
HY
SINH: Quyền sử dụng đất là quyền dân sự và phải được đối xử bằng pháp luật
về dân sự. Không thể lấy đất của người dân để phát triển kinh tế bằng cách bắt
người dân phải hy sinh quyền lợi của họ cho các doanh nghiệp được.
(Mai Ái Trực, Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường – TT 4/3/2007, tr.4).
TREO KHỔ: Hàng ngàn hộ dân ở huyện Bình
Chánh (TP. HCM) đang khổ sở vì hàng chục dự án treo thuộc hạng cổ nhất, nhì của
TP. Đứng đầu danh sách dự án treo lâu năm của huyện này là dự án khu sinh thái
Vĩnh Lộc, với quy mô hơn 400 hecta, ra đời đã 14 năm, và hiện còn nằm trên… giấy!
Chúng tôi đến xã Vĩnh Lộc B, một trong
ba xã bị dính quy hoạch dự án khu sinh thái. Càng đi sâu vào các ấp, những con
đường đất càng khó đi vì gập ghềnh và đầy ổ gà – Ông Phạm Văn Mẻ, ngụ ở ấp 5,
nói: “Tụi tui sống dở chết dở vì cái dự án này”. Chỉ tay về những căn nhà mái
lá, vách lá, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trong đó có căn nhà của mình, ông
Mẻ nói tiếp: “Ở đây, nhà nào cũng có vài công đất, nhưng chẳng làm gì được, sau
khi bị dự án treo đè suốt 14 năm qua. Khu sinh thái văn hóa chẳng thấy đâu, chỉ
thấy cái nghèo cứ bám riết tụi tui”.
Hàng ngàn hộ dân ở phường Hiệp Bình
Chánh (Thủ Đức) nằm trong vùng quy hoạch khu đầu mối giao thông và dân cư Bình
Triệu (có tổng diện tích 200 hecta) được phê duyệt vào tháng 3/2002, nhưng đến
nay – đã 7 năm – dự án này vẫn chưa nhúc nhích, trong khi quyền lợi của người
dân đều bị “đóng băng”.
Dự án xây dựng bến xe Miền Tây tại xã
Tân Quý Tây (huyện Bình Chánh) đã triển khai hơn 10 năm qua, người dân mòn mỏi
chờ đợi, nhưng đến nay vẫn chưa thấy khởi động… Do là đất đã “quy hoạch” nên cuộc
sống của bà con bị ảnh hưởng rất lớn. Hộ ông Trần Văn Út ở tổ 9 xin cất nhà cho
con ra riêng; hộ bà Sáu Nhạn xin làm lại nhà mới do căn hộ đang ở xuống cấp; hộ
bà Nguyễn Thị Dồi xin xây nhà kho để cho thuê, buôn bán; nhưng tất cả đều bị lắc
đầu!
(Minh Nam – Nguyên Thủy,
TN. 20/9/2009, tr.5)
THU
HỒI: Ông Nguyễn Quốc Cường, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam cho biết: 78% hộ
nông dân sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông – lâm nghiệp mà nông – lâm nghiệp
chỉ tăng trưởng 3,5%, thấp gấp mấy lần so với mức tăng trưởng chung của nền
kinh tế đất nước, trong khi trên 70% dân số VN hiện nay vẫn là nông dân. Như vậy,
đa số dân cư vẫn ở trong khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất. Bên cạnh
đó, giá cả cứ leo thang chóng mặt. Dù đến cuối năm nay chỉ số tăng giá tiêu
dùng dừng ở mức 8%, nhưng so với mức tăng trưởng 3,5% ở khu vực nông thôn mới
thấy đời sống nông dân cực kỳ khó khăn.
Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi
chuyển sang làm công nghiệp khoảng 250.000 hecta, gần gấp 3 lần diện tích tỉnh
Bắc Ninh. Khoảng 80% diện tích đất thu hồi là đất bờ xôi, ruộng mật, rất tốt
cho nông nghiệp. Việc thu hồi đất này làm giảm sản lượng lương thực mỗi năm nửa
triệu tấn, ảnh hưởng trực tiếp đến 627.000 hộ nông dân, 952.000 lao động. Đất đai
của chúng ta còn rộng, tại sao không ĐƯA CÔNG NGHIỆP ĐẾN CHỖ ĐẤT KHÔNG PHÙ HỢP
CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP nhưng phù hợp với sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản?
(Khiết Hưng, 4/11/2007,
tr.6)
BA
KHÔNG: Bị giải thỏa 8 năm nhưng chưa được nhận nền tái định cư (TĐC), có đất
nhưng không được bồi thường, khu TĐC không điện, nước, đường… là những bất cập
tại các dự án TĐC ở Quận 8, TP. HCM.
1. Bình Điền: Chủ đầu tư hứa một năm
sẽ giao nền TĐC, nhưng tám năm qua (từ 2004 đến nay) hàng trăm hộ dân nằm trong
dự án Trung tâm Thương mại Bình Điền ở Quận 8 vẫn chưa được nhận nền nhà, rơi
vào cảnh ở trọ suốt một thời gian dài.
Không chỉ chậm trễ, nhiều hộ dân còn khốn
khổ vì năm 2004 chủ đầu tư hứa đổi ngang đất cho dân, thì nay lại yêu cầu dân
phải đóng thêm tiền chênh lệch mới giao nền. Lý do thì nhiều, nhưng kết quả là
người dân không nhận được đất nền, phải lang thang ở trọ.
2. Bến Lức: Cách Bình Điền không xa,
khu TĐC Bến Lức (phường 7 – Quận 8) mặc dù người dân đã dọn về ở từ năm 2007,
nhưng đến nay vẫn chưa có điện, nước sạch, đường thì hư hại nặng. Muốn sử dụng
nước, điện, người dân phải xài ké của các nơi khác với mức giá 3.500 đồng một
Kw điện, và 20 ngàn đồng mỗi mét khối nước. Đã mấy năm trôi qua nhưng người dân
vẫn không nhận được giấy chủ quyền… Do thiếu đủ thứ, nên đến nay, sau 5 năm
giao nền cho dân, khu TĐC Bến Lức mới chỉ có một số ít hộ dân về cất nhà.
(Đình Sơn, Thanh niên –
TN – 22/4/2012, tr.17).
ĐÃ
14 NĂM: Hơn 14 năm trôi qua kể từ ngày dự án làng đại học Đà Nẵng công bố,
cuộc sống của hàng ngàn người dân nằm trong vùng ảnh hưởng của dự án đã bị xáo
trộn, cảnh sống tạm bợ cứ thế kéo dài.
Ở xã Điện Ngọc, khi nghe nhắc đến dự án
làng đại học Đà Nẵng, nhiều người dân chỉ biết lắc đầu, thở dài. 14 năm qua, tất
cả những gì cần kíp cho cuộc sống con người phải dừng lại. Đường giao thông
nông thôn không được làm, nhà cửa không được xây cất.
Dự án làng đại học này được phê duyệt
vào tháng 12/1997 với quy mô 300 hecta, nằm ở vùng giáp ranh giữa xã Điện Ngọc
(huyện Điện Bàn, Quảng Nam) và phường Hòa Quý (quận Ngũ Hành Sơn). Có gần 1.000
hộ dân ở xã Điện Ngọc và 420 hộ dân ở phường Hòa Quý bị ảnh hưởng. Đến nay, dự
án vẫn chưa được thực hiện.
Ông Trần Duy Nghĩa, chủ tịch xã Điện Ngọc,
cho biết: khoảng 1.000 gia đình ở ba thôn Câu Hà, Tứ Hà, Ngọc Vinh bị ảnh hưởng
bởi dự án. Khổ nhất là dân không được chuyển nhượng, mua bán, cơi nới, xây mới
nhà cửa trong khi số nhân khẩu của các gia đình không ngừng tăng.
(Hữu Khá – Trà Giang, VN
10/1/2012, tr.7).
NGẪU
HỨNG: Quy hoạch sân golf tại ấp Bãi Vòng, xã Hàm Ninh (Phú Quốc, Kiên
Giang) treo hơn 10 năm nay, khiến người dân có đất nằm trong dự án này, vốn đã
khó khăn, nay trở nên cùng cực. Thật cám cảnh “đất treo, người đói meo”.
Một số dự án trở thành kỳ vọng của thành
phố du lịch Vũng Tàu, với vốn đầu tư lên tới hàng tỉ USD, nhưng cho đến nay dự
án vẫn nằm trên giấy. Đất dự án thành vùng đất hoang. Chủ đầu tư thì lặn mất
tăm. Khu đất vàng ấy đã bị nhiều người nhãy vào xà xẻo, lấn chiếm.
Một đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Trị đã
phê phán tình trạng sử dụng đất trái pháp luật, sai mục đích, để hoang hóa,
lãng phí là rất nghiêm trọng. Có tới 2.455 cơ quan, tổ chức với hàng chục ngàn
dự án treo để hoang hóa tới 250.862 hecta đất. Nguồn tài nguyên khổng lồ quý
giá đã bị lãng phí trong nhiều năm.
Những quy hoạch không sát thực tế, quy
hoạch ngẫu hứng biến không biết bao nhiêu đất nông nghiệp thành đất hoang,
thành những khu công nghiệp ma, để lại tai tiếng bao đời. KCN ngốn đất ruộng
thành bãi hoang. Một sự lãng phí khủng khiếp như vậy mà không ai việc gì, chẳng
ai bị kỷ luật. Thật kỳ lạ!
(Khổng Minh Dụ ANTG
12/11/2011, tr.12)
AI
HƯỞNG LỢI?: Việc điều chỉnh thị trường bất động sản trong thời gian qua phải
khẳng định là yếu kém. Khi nguồn cầu tăng chúng ta đã không tạo được nguồn cung
tương ứng. Hà Nội trong mấy năm qua phê chuẩn khoảng 20 dự án, thực hiện được
có bốn. TP. HCM có khoảng 25 dự án, triển khai được sáu. Sự chênh lệch cung cầu
lớn thế làm sao giá không tăng?
Chính sách tài chính đất đai của ta chưa
ổn. Chúng ta mới dùng công cụ hành chính mà chưa dùng công cụ kinh tế để biến đất
đai thành nguồn lực phát triển kinh tế bền vững. Đất của dân bình thường chỉ
vài trăm ngàn đến vài triệu đồng mỗi mét vuông. Sau khi nhà nước thu hồi, làm
đường, giá tăng vọt lên cả chục triệu, nhiều khi vài chục triệu đồng một mét
vuông. Trước nay khoản chênh lệch này thường chỉ doanh nghiệp được lợi, trong
khi đất thuộc sở hữu toàn dân.
(Đỗ Đức Đôi – Vụ phó Vụ đăng
ký và thống kê, Bộ Tài nguyên Môi trường – 13/1/2008, tr.6)
LÀNG
Mười năm tôi trở về làng
Sầu
đông vò võ lá vàng đợi tôi
Người
ăn xin xếp hàng ngồi
Tay
cầm mê nón tả tơi sân đình
Trăm
lời ước nguyện cầu xin
Cơn
mưa bố thí trăm nghìn hạt mưa
Làng
xưa heo hút… làng xưa
Lạnh
tanh cả tiếng chuông chùa chiều hôm
Đất
trơ đá, nhà trơ xương
Mẹ
tôi gầy guộc, mảnh vườn trơ cây
Tháng
giêng hoa cỏ nở đầy
Tìm
đâu hoa lúa đất này làng ơi
Tôi
đi góc bể chân trời
Đá
mềm chân cứng ba mươi tuổi về
Vẫn
còn đó một làng quê
Nhà
tranh vách đất, lũy tre, đường lầy.
Lời
ru dấu võng còn đây
Con
bò buộc cội rơm gầy chân nhang!
Xót
xa tôi gọi: ơi làng!
Sầu
đông thắp nụ muộn màng nhìn tôi.
* Nguyễn Hoài Nhơn
DỰ
TRỮ: Chúng ta cứ giao đất như hiện nay thì chẳng mấy lúc sẽ hết. Số tiền bội
thu từ đất thời gian qua thể hiện rằng chúng ta đã cấp tập làm một việc là giao
đất càng nhiều càng tốt, còn đất dự trữ cho tương lai thì không ai tính đến.
Cái nguy hiểm của thời gian vừa rồi là chúng ta giao đất rất mạnh tay, kể cả
cho những dự án CÒN MÙ MỜ VỀ TÍNH KHẢ THI.
(Đặng Hùng Võ, Thứ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường – NN. 4/3/2007, tr.4).
MẤT
ĐẤT: Đến nay, cả nước có 141 sân golf ở 39 tỉnh, thành, với tổng diện tích
49.268 hecta đất, trong đó có 2.625 hecta đất trồng lúa hạng thượng đẳng, mất
trắng để làm sân golf. Chỉ từ tháng 7/2006 đến tháng 5/2008, đất quê ta đã hóa
thành 104 dự án sân golf.
Đã có thể nhìn thấy đằng sau những sân
golf “cỏ non xanh rợn chân trời” là tình trạng lạm phát sân golf, gây lãng phí
nguồn tài nguyên đất quý giá, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường,
nghiêm trọng hơn còn ảnh hưởng đến an ninh lương thực và an sinh xã hội.
Từ giữa năm 2006 đến cuối năm 2007,
riêng tỉnh Long An đã đón nhận đơn xin cấp phép 18 dự án sân golf, đặc biệt huyện
Cần Giuộc có đến 7 dự án. Riêng xã Long Hậu có 5 dự án, chiếm tới 1.555 hecta. Ở
TP. HCM, Hà Nội, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng sân golf bạt ngàn… Trung bình, đất
trồng lúa tính theo đầu người ở Việt Nam chỉ khoảng 0,1 ha/người. Khi 2.625
hecta đất lúa mất để làm sân golf thì sẽ có 2,6 triệu nông dân mất đất, mất nghề.
(Hồng Hạc, NA 6/9/2008, tr.6)
TRƯỢT
DÀI: Những rủi ro của người dân khi tái định cư là mất đất, mất việc làm, mất
nhà. Mất đất, không đơn thuần là đất bị thu hồi mà còn mất cả nguồn lợi do miếng
đất ấy mang lại, có thể đó là vụ mùa nông nghiệp hoặc khu đất trước nhà có thể
buôn bán mưu sinh qua ngày – Mất việc làm: Cần phải hiểu rộng ra, mất việc làm
đây không chỉ là mất công ăn việc làm hiện tại mà còn là khi người dân bị di dời
vào nơi ở mới, không thể sử dụng tay nghề hoặc kỹ năng có sẵn để làm việc như
trước, và như vậy họ bị mất cơ hội công ăn việc làm ở nơi ở mới – Mất nhà:
không phải chỉ là mất nơi trú ngụ cũ mà còn là mất không gian sinh hoạt cộng đồng
chung, có thể là mất đi những thói quen tụ họp vào mỗi buổi chiều để chuyện trò
hay sinh hoạt tập thể. Điều này làm những người bị tái định cư cảm thấy cô đơn
và lạc lõng trong cộng đồng dân cư nơi họ đến ở. Ngoài ba cái mất trên, có thể
tính thêm cái mất thứ tư: bị cách ly. Cũng cần phải xem xét đến tình hình kinh
tế của các hộ dân bị thu hồi đất, một phần vì họ có thể bị mất đi sức mạnh kinh
tế sẵn có. Ví dụ như các gia đình nông dân có nhiều đất và có thu nhập chính từ
mảnh đất này bị giảm diện tích đất, và vì vậy họ bị giảm thu nhập. Các gia đình
có công việc kinh doanh nhỏ sau khi bị thu hồi đất công việc kinh doanh lại
càng nhỏ hơn, và nhìn chung các gia đình này có nguy cơ trượt dài xuống ngưỡng
đói nghèo và bị bần cùng hóa.
(PV, VH. 21/12/2008,
tr.12)
BIỆT
THỰ VÀ GOLF: Việc thu hồi đất nông nghiệp để lập sân golf rất đáng lo ngại.
Trong tổng số hơn 23.000 hecta của 76 dự án sân golf đã và đang triển khai trong
cả nước, có tới 8.000 hecta đất (chiếm 35%) bị đẩy qua kinh doanh bất động sản,
như xây biệt thự, nhà nghỉ, nhà hàng… Đã có những ý kiến cho rằng, thực chất
hàng trăm ngôi biệt thự cao cấp đính kèm bên cạnh sân golf trong mỗi dự án mới
là mục tiêu chính mà các chủ đầu tư nhắm đến (khi xin lập sân golf). Ví dụ,
trong tổng diện tích 4.200 ha đất của chín dự án sân golf đang triển khai tại
Lâm Đồng, chỉ 20% diện tích đất được dành cho sân golf, phần còn lại chủ yếu để
xây dựng nhà nghỉ, biệt thự bán và cho thuê.
Diện tích đất nông nghiệp giảm trong khi
dân số tăng 1,2 triệu người mỗi năm, nên đất nông nghiệp bình quân đầu người từ
1.100 m2 (năm 2001) giảm xuống còn 900 m2 (năm 2010).
Theo tính toán, cứ một hécta đất nông
nghiệp bị thu hồi sẽ làm bốn lao động mất việc làm, và với nửa triệu hécta đất
bị thu hồi từ năm 2001 đến năm 2010, số lao động mất việc làm tăng lên đến hàng
triệu người. Trong số các lao động của các gia đình bị thu hồi đất, chỉ khoảng
13% tìm được việc làm mới tại địa bàn (tại quê của họ), 20% thất nghiệp hoàn
toàn, 67% thất nghiệp từng phần (chỉ có việc làm vào thời vụ) – Trên địa bàn
nông thôn cả nước hiện nay có khoảng 7 triệu người không có việc làm thường
xuyên, trong đó có trên 50% số người chỉ có việc làm từ ba đến bốn tháng mỗi
năm.
Số người di cư từ nông thôn ra thành thị,
ra các khu công nghiệp để làm thuê bằng đủ thứ nghề với tiền công rẻ mạt, hoặc
tìm việc làm tại các chợ lao động vùng ven tăng lên nhanh chóng, tập trung nhiều
ở các thành phố lớn.
(Viện nghiên cứu quản lý Kinh
tế và báo SGTT 15/6/2012, tr.6).
RỪNG
VÀ LŨ: Trong chục năm trở lại đây, tại sao lũ xuất hiện với tần suất ngày
càng dày, cường suất càng tăng lớn, cho dù lượng mưa chưa đến 1.000mm như trận
lụt năm 1999 – Không có cớ gì đổ tại trời, cho dù cái cớ đó là dễ đổ nhất.
Chính là tại người. “Nhân tai” chứ đâu phải “thiên tai”. Độ che phủ của rừng
ngày càng thủng rách, như cái ô tã tơi. Bao nhiêu vụ phá rừng, đốn trụi, tàn
sát rừng đầu nguồn chẳng phải nhức nhối nhất ở miền Trung đó sao? Rừng đầu nguồn
xơ xác thì tất yếu lũ lụt phải dữ dội hơn trước.
Không đợi đến đời con, đời cháu, chính
hôm nay, đời cha ăn mặn và ăn xổi ở thì, cha phải lãnh đủ. Hậu quả đã sờ sờ trước
mắt… Các chuyên gia có tầm nhìn xa đã cảnh báo, sau lũ lụt sẽ là xói lở bờ biển.
Mức độ xói lở ngày càng kéo dài theo 3.260 km bờ biển, đặc biệt tại các tỉnh
duyên hải miển Trung, từ Thừa Thiên – Huế đến Bình Thuận.
Ở hạ lưu các con sông, do xây dựng các
công trình, cầu cống không quy hoạch, không tính đến đường cho lũ thoát nên khi
lũ đổ thốc xuống, nước không chảy kịp, ứ nghẹn, ngâm lâu và chảy xiết như thác
gây thiệt hại không kể hết.
(Hồng Hạc, VN 24/11/2007,
tr.7)
BÁNH
VẼ: Cái sân golf Phượng Hoàng mỹ miều, thênh thang cỏ mượt rộng hơn 300
hecta ra đời đã đẩy hàng trăm hộ dân xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
vào tình cảnh lao đao – Lời hứa sẽ đưa con em người Kinh, người Mường bị mất ruộng
mất nhà ở Lâm Sơn vào làm việc ở sân golf, lời hứa đào tạo nghề thay thế nghề
nông đã mất dần, rồi biến thành những miếng bánh vẽ tàn độc nhất. Đủ thứ hóa chất
độc hại để nuôi tưới cỏ sân golf đã tràn ra suối, rồi người ta cứ bơm thứ nước
đó cho dân ăn uống suốt mấy năm qua. Tiền đền bù đất đai còn nợ đọng dây dưa.
Bà con kéo lên cổng sân golf dựng lều kiến nghị.
Những cảnh thê thảm, nhức nhối kia, là cận
cảnh của cái sân golf ở cửa ngõ thủ đô Hà Nội.
Nông dân không chỉ mất đất nông nghiệp,
đất ở cho sân golf, (chỉ được đền bù với giá bèo là hơn 30.000 đồng mỗi mét
vuông – ba mươi ngàn), mà đau đớn hơn: sau khi đi vào hoạt động, cái sân golf ấy
đã TRỞ MẶT, gây nhiều trở ngại cho các chủ cũ, đến mức bà con không làm sao sống
bình thường được. Dòng suối cung cấp nước ăn cho cả xã, bị sân golf chiếm dụng.
Muốn có nước tắm, phải chờ họ bơm. Đường đi học của trẻ nhỏ bị chia cắt, bị cày
nát, nhiều cháu sống ở bên kia núi, bị sân golf án ngữ đường đi, phải bỏ học.
Đường lên nương cũng mất. Mà sân golf trưởng giả, sang trọng không cho nông dân
đi qua (sân golf) khi đang có khách chơi. Nhiều người, xưa nay vẫn ở nhà liền với
nương rẫy, nay bị dồn sang khu tái định cư, muốn lên tới rẫy phải đi vòng qua
các mép sân golf, đi đủ 12 km!.
Một cái sân golf phục vụ thú chơi quý tộc
ra đời ở Lâm Sơn, nó lấy mất 100% đất của 125 hộ dân, khiến họ phải chuyển đến
nơi ở mới; 160 hộ mất một phần đất đai, nay đang khốn khó vì “phú quý giật
lùi”.
(L.N.T, NN số 800,
18/10/2008, tr.4).
KHIẾU
TỐ – KHIẾU NẠI: Có thể thấy những lý
do dẫn đến việc khiếu kiện tập trung đông người như vừa qua đều xuất phát từ
nguồn gốc duy nhất: chính quyền ở các địa phương chưa làm tốt trách nhiệm của
mình.
Chúng ta thừa biết, đụng đến vấn đề đất
đai là đụng đến cái tài sản căn bản nhất của người dân, nhất là những người dân
vùng nông thôn. Nhưng hiện nay những chính sách về đất đai vẫn chưa được ban
hành một cách đầy đủ, và nếu có thì lại thiếu tính ổn định. Chẳng hạn, chúng ta
chưa có khung giá đền bù cho đất “thị tứ”, và loại đất này được nhập vào loại đất
“nông nghiệp”, là loại có mức giá đền bù thấp. Như vậy làm sao người dân chấp
nhận được. Bên cạnh đó, dù cùng một dự án nhưng có thể có hai, ba mức đền bù
khác nhau, do sự thay đổi trong chính sách đền bù vì thời gian giải tỏa kéo
dài, nên chắc chắn dân cũng không chấp nhận.
Quyền khiếu tố khiếu nại là quyền của
dân nhưng hiện nay người dân không thể biết được thế nào là khiếu nại đúng. Họ
cũng không biết phải đến địa chỉ nào để trình bày những thắc mắc của mình.
(Lê Minh Tiến, 29/7/2007,
tr.11).
ĐỨNG
VỀ PHÍA NÀO?: Để họ (nông dân) phải đói khổ, vất vưởng, không còn biết
nương tựa vào đâu là chúng ta có tội… Việc giải tỏa, đền bù đất đai là việc của
doanh nghiệp với dân. Chính quyền chỉ nên là người trung gian, chứng kiến, giám
sát. Và nếu có đứng thì phải đứng về phía nhân dân, vì lợi ích của dân, không
phải vì quyền lợi của mấy anh nhà giàu. Nếu phải giải tỏa đất đai mà đền bù thỏa
đáng thì không có biểu tình, khiếu kiện. Nhưng đền bù chỉ mấy trăm ngàn một mét
vuông đất, sau đó các ông “chủ mới” đem bán với giá mấy chục triệu đồng thì làm sao người dân chịu. Họ không nổi khùng mới là chuyện lạ.
(Trần Đăng Khoa,
quechoa.vn 3/3/2013).
VÒNG VÈO – TINH VI: Tham nhũng trong quản
lý đất đai ở Việt Nam luôn được đánh giá vào mức độ cao nhất trong tất cả các
lãnh vực quản lý.
Tham
nhũng luôn gắn liền với sự thiếu minh bạch trong khâu giải quyết các thủ tục
hành chính, thiếu minh bạch về thông tin. Có thể thấy một chu trình khép kín ở
Việt Nam, đó là 1/ Nghèo đói và dân trí thấp tạo ra tham nhũng – 2/ Tham nhũng
cần có môi trường thiếu minh bạch trong quản lý đất đai – 3/ Thiếu minh bạch
trong quản lý đất đai tạo ra tình trạng đất đai và bất động sản không được pháp
luật công nhận và bảo vệ.
Các
dạng tham nhũng đất đai: 1/ Cấp có thẩm quyền thực hiện các thủ tục hành chính
về đất đai thường kéo dài thời gian nhằm nhận hối lộ của các chủ đầu tư – 2/
UBND cấp xã bán đất thuộc phạm vi mình quản lý để thu lợi, sử dụng một phần cho
mục đích riêng tư – 3/ Cấp có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất trái
quy hoạch, không đúng đối tượng, tính giá đất thấp hơn giá thị trường nhằm nhận
hối lộ của nhà đầu tư – 4/ Cấp có thẩm quyền thu hồi đất với diện tích rộng hơn
diện tích sẽ giao cho nhà đầu tư. Phần đất chênh lệch sẽ bị họ tuồn cho thân
nhân, cho người quen. (Ví dụ: dự án cần 120 hecta, họ sẽ thu của nông dân 160
hecta – 40 ha dôi ra đó sẽ là “lộc” của họ).
(Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế và báo SGTT 15/6/2012, tr.6).
LƯƠN
LẸO: “Biệt thự hóa” sân golf là tình trạng ở hầu hết các sân golf tại tỉnh
Bình Thuận.
Đến nay Bình Thuận đã cấp phép đầu tư
cho 9 dự án sân golf, trong đó chỉ có sân golf Phan Thiết là dự án “sạch”,
không có bất động sản ăn theo. Tám dự án còn lại có tổng diện tích 3.664 hecta
nhưng sân golf chỉ chiếm 1.136 hecta, còn lại là biệt thự, khách sạn và các
công trình khác.
Đơn cử như dự án sân golf 36 lỗ ở xã Tân
Thắng (huyện Hàm Tân) với vốn đầu tư 90 triệu USD (100% vốn của Hàn Quốc) có diện
tích 329 hecta, nhưng sân golf chỉ chiếm 90 hecta. Phần còn lại dành cho việc
xây dựng khoảng 400 căn biệt thự và khách sạn 4 sao – Dự án tổ hợp khu du lịch
thung lũng Đại Dương với tổng vốn 400 triệu USD, có diện tích 999 hecta nhưng
sân golf chỉ 200 hecta, gần 700 hecta để xây dựng biệt thự, khách sạn và các
công trình khác – Đặc biệt, dự án khu đô thị du lịch Cali Biển diện tích tròn
1.000 hecta, nhưng diện tích sân golf chỉ 80 hecta.
Theo phân tích của một chuyên gia về địa
ốc, thì biệt thự có diện tích 400m2 ở vị trí đẹp, gần biển, hiện nay
có giá rao bán đến vài chục tỷ đồng. Trong khi đó, cũng với diện tích này, đem
giao cho chủ đầu tư làm dự án sân golf, nhà nước thu về cho ngân sách chẳng được
bao nhiêu.
Ông Nguyễn Hồng Chín, nguyên phó thanh
tra tỉnh Bình Thuận cho rằng: “Thực chất đây là một hình thức trục lợi đất của
các nhà đầu tư để kinh doanh bất động sản”.
Điều đáng quan tâm, hầu hết các dự án
sân golf đang bị “đóng băng” được quy hoạch ven biển, chạy dài từ xã Tân Thắng
(huyện Hàm Tân) cho đến xã Hòa Thắng (huyện Bắc Bình), nơi được đánh giá là vị
trí vàng, vì có thể xây dựng resort để kinh doanh du lịch.
Theo quy hoạch giai đoạn 2015 – 2020, chỉ
riêng khu vực xã Thiện Nghiệp, tiếp giáp với Mũi Né (thuộc TP. Phan Thiết) và
thị trấn Phú Long (huyện Hàm Thuận Bắc) có hai dự án có sân golf chiếm diện
tích đất: 1.778 hecta.
(Quế Hà, TN. 18/3/2012,
tr.18).
GOLF
Bao nhiêu bờ xôi ruộng mật
Biến thành nhà nghỉ, sân golf
Bao nhiêu đồng hoang đồi trọc
Vẫn trơ sỏi đá, đất phèn
Có gì nhoi nhói trong tim
Trước bao chuyện đời phi lý.
KHỔNG MINH DỤ
BẤP
BÊNH: Mười năm qua, TP. HCM đã có hơn 100.000 hộ dân bị ảnh hưởng của di dời,
giải tỏa, (số hộ phải tái định cư là hơn 27.000 hộ).
Thạc sĩ Lê Văn Thành – Viện Nghiên cứu
phát triển TP. HCM – cho biết:
“Khi tìm những người dân tái định cư để
tiến hành các nghiên cứu liên quan thì chúng tôi thấy rằng cuộc sống của nhóm
dân cư này đứng trước nhiều nguy cơ, nhất là nghèo đói, nhưng không ai biết rõ
và chịu trách nhiệm chính trong việc chăm lo, hỗ trợ họ. Đó là điều rất đáng ngại.
Chủ các dự án rất thích đền bù cho dân bằng
tiền để khỏi xây nhà tái định cư, khỏi chăm lo gì cả. Đây là cách giải quyết
thuận lợi cho chính quyền và các chủ đầu tư.
Nhưng việc đền bù và hỗ trợ thêm bằng tiền
sẽ không giúp gì được cho người tái định cư mà có thể đẩy họ vào chỗ khó khăn
hơn nữa. Vì sau khi nhận tiền, nhiều người dân đã dùng một phần số tiền đó vào
các mục đích không phải mua nhà ở hay chăm lo cuộc sống mới.
Điều đáng lưu ý qua khảo sát của chúng
tôi là đa số hộ tái định cư có thu nhập thấp hơn trước khi bị di dời, giải tỏa,
trong khi chi phí cho cuộc sống mới của hầu hết các hộ đều tăng. Sự giảm sút về
thu nhập cho thấy những khó khăn mà người dân phải chịu trong công việc làm ăn.
Khảo sát cũng cho thấy, tuy người dân không thay việc làm nhưng thu nhập họ kiếm
được từ công việc làm ăn đã bị giảm sút. Lý do? Vì họ phải di chuyển chỗ ở hoặc
phải chi phí cho việc đi làm xa, nhiều khi có những phí tổn mà người dân không
nghĩ tới, không ngờ nó lại xảy đến. Những khó khăn này trong thu nhập của người
dân nên được coi là một trong những chỉ báo về sự không ổn định của người dân
sau tái định cư”.
(Quốc Thanh, VH.
14/12/2008, tr.10)
BÁN
MÀ ĂN: Một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi: chúng ta đã khai
thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ… Mình bán tài
nguyên mà ăn, rồi con cháu các thế hệ sau ăn không khí à?
Quốc doanh khai thác gỗ xuất khẩu, hợp
tác xã khai thác xuất khẩu, gỗ cứ kìn kìn từ rừng Tây Nguyên, rừng miền Trung đổ
về các cảng biển, nay (2011) thì rừng đã bị bán ăn gần hết.
Hết rừng thì bán đất rừng. Hơn 300.000
hecta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50
năm. Nghĩa là 50 năm chúng muốn biến số đất rừng đó thành căn cứ quân sự, lô cốt,
hầm ngầm… là quyền của chúng.
Tỉnh nào cũng có vài ba khu công nghiệp,
nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu sáng giá vì máy móc lạc
hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua. Tỉnh nào cũng có ba, bốn (hoặc nhiều
hơn) sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị, dự án khu biệt thự, đang làm cho đất
nông nghiệp, đất trồng lúa, trồng cây ăn trái thu hẹp với tốc độ chóng mặt. Mỗi
năm có từ 73.000 đến 120.000 hecta đất nông nghiệp bị thu hồi, bị “chuyển đổi”.
Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất
thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra
khỏi mảnh đất sinh sống ngàn đời của họ.
(Ngô Minh, quechoa.info,
10/11/2011)
BIẾN
HÓA: “Bản thân sân golf không có lỗi, nhưng một nước nghèo như nước ta mà
có đến 144 sân golf thì quả là điều khó hiểu”.
Con đường vòng vèo biến ruộng lúa của
nông dân thành sân golf rồi biến sân golf thành biệt thự. Đằng sau con đường đó
là sự cài cắm lợi ích nhóm khó có thể chối cãi, biện minh.
(SGTT, 3/6/2009, tr.14)
BẾT:
Về chuyện xuất khẩu gạo, TS Lê Văn Bảnh – Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL – cho biết:
Hệ thống phân phối của chúng ta có vấn đề khi để xảy ra tình trạng đầu cơ mà
không điều tiết được. Ở Thái Lan, tới mùa thu hoạch hiệp hội mua hết lúa và
phát phiếu cho nông dân để họ được mua vật tư giảm 10%. Hiệp hội nắm lúa, dự
báo và quyết định thời điểm xuất có lợi nhất. Họ bán theo kiểu một mình một chợ,
Việt Nam thì làm ngược lại, một người mua mà mấy chục doanh nghiệp bu vào tranh
nhau bán, khiến cho giá bị ép.
Hiệp hội lúa gạo ở ta thật ra là các
doanh nghiệp. Mà doanh nghiệp thì họ chỉ quan tâm tới lợi nhuận chứ không phải
vấn đề gì khác. Lúa gạo làm ra, người nông dân không tự định được giá trị của
nó. Chẳng hạn, nông dân sản xuất ra lúa, doanh nghiệp bảo: 5 ngàn một ký, không
bán thì thôi. Nông dân không có kho dự trữ, phải bán để lấy tiền trả nợ (giống,
công, phân bón) và đầu tư làm vụ kế tiếp, nên buộc phải bán theo giá của doanh
nghiệp đặt ra… Hiệp hội lúa gạo bán lời bao nhiêu ẵm trọn, lấy hết, nông dân
không biết và không được hưởng gì cả.
Hạt gạo ta phải trải qua quá nhiều trung
gian trước khi xuất khẩu – Lúa gạo ta nhiều nhưng hệ thống phân phối có vấn đề.
Hiệp hội, tổng công ty lương thực chỉ biết ký hợp đồng, sau đó giao cho các
doanh nghiệp chân rết. Lẽ ra hiệp hội, các tổng công ty lương thực phải điều tiết
doanh nghiệp, khi nào nên xuất khẩu để có lợi nhất. Khả năng quản lý, phân phối
của chúng ta quá yếu.
(Trí Dũng – Minh Giảng. VN.
29/6/2008, tr.8).
3.800
ĐOÀN: Sáng nay (7/11/2012), các đại biểu Quốc hội thảo luận về việc khiếu nại,
tố cáo liên quan đến đất đai.
“Từ năm 2003 đến 2010, cơ quan các cấp
trên cả nước đã tiếp nhận hơn 1,2 triệu đơn thư khiếu nại, tố cáo, trong đó số
liên quan đến đất đai chiếm gần 70%. Số vụ khiếu nại đúng chiếm 20%, có đúng có
sai chiếm 28%. Qua đó có thể thấy việc khiếu nại, tố cáo của công dân là có cơ
sở. Nguyên nhân của tình trạng này là pháp luật về đất đai không sát thực tế –
chính sách bồi thường, hỗ trợ, giá đất, tái định cư có sự chênh lệch lớn, trong
đó người dân luôn gánh chịu phần thiệt thòi”. Trên đây là lời của đại biểu Nguyễn
Văn Giàu.
Từ năm 2005 đến tháng 6/2009, cả nước có
hơn 3.800 đoàn khiếu nại, tố cáo đông người – năm 2010 có trên 3.200 đoàn – năm
2011 có gần 4.200 đoàn.
(Nguyễn Hưng, vnexpress.net
7/11/2012).
Dân ơi
Năm nay lại lụt trắng đồng
quê ta lại tỏng tòng tong mùa
màng
làng ta lại lóp ngóp làng
lòng ta lại ếch nhái hoang cả
lòng
Bà con mất bữa nhiều không
những ai bị gậy phiêu bồng chân
mây?
Bóng ai lỏng khỏng hình cây
căm căm gió bấc thế này… làm
sao?
Bạn ơi dù có thế nào
giữ cho nhau sắc hoa đào ngàn
năm
tốt lành lời chúc sang xuân
nén nhang bái tổ khấn thầm: dân
ơi!
* Nguyễn Duy
CHO
THUÊ: 398.374 hecta là diện tích đất rừng mà 18 tỉnh đã cho các nhà đầu tư
NƯỚC LẠ thuê, gần bằng diện tích tỉnh Tây Ninh. Số đất đó hầu hết ở vị trí, khu
vực trọng yếu về quốc phòng – an ninh, có nơi là rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn,
(theo khảo sát của Ủy ban quốc phòng của Quốc Hội).
(PV. VN 12/6/2012, tr.6)
PHÁ
RỪNG, 1.710 VỤ: “Nói thế thì các ông làm việc chả có mưu mẹo gì cả, đấy là
tôi nói nhẹ”.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức
Phát than phiền khi nghe ông phó giám đốc vườn quốc gia Yok Don (là vườn quốc
gia lớn nhất nước) cho biết, dù có hơn mười trạm kiểm lâm dưới quyền, nhưng ông
vẫn không bắt được lâm tặc vận chuyển gỗ… Chín tháng qua, diện tích rừng bị thiệt
hại ở khu vực Tây Nguyên và Đông Nam bộ lên đến 1.047 hecta, chiếm 68% so với
toàn quốc, với 1.710 vụ phá rừng bị phát hiện.
(VnEconomy 24/10/2011).
KHÓ
TIN: Thiếu tướng Trịnh Xuân Thu – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh,
nói: “Các kiểu tham nhũng đất đai thì muôn hình vạn trạng. Chẳng hạn, khi quy
hoạch đất đai thì xã, huyện kê gian. Có khi đất ruộng tốt thì bảo là đất cồn
bãi để dễ chuyển sang mục đích sử dụng khác. Xã trình lên trên thì trên duyệt
ký, duyệt ký xong thì đất ruộng biến thành đất xây dựng, bán đất đó làm nhà,
giá trị đất tăng lên rất cao. Nếu dưới xã trình lên huyện, huyện duyệt, thì phải
“có phần” cho huyện.
Tỉnh nào cũng có chuyện cấp xã bán đất
vô tội vạ. Ngay giữa thủ đô cũng bán như thế. Chúng tôi nhận được nhiều đơn của
dân khiếu kiện, họ liệt kê rõ chủ tịch xã bán bao nhiêu lô đất, bán cho ai, bao
nhiêu mét vuông, lấy bao nhiêu tiền. Hà Nội, Hà Tây, Tây Ninh, Bến Tre… đều có
chuyện này.
Rồi chuyện chính quyền giao đất cho
doanh nghiệp “ma”, lắm khi giao đất cho người nhà. Tình trạng này diễn ra trên
cả nước – Một kiểu nữa: doanh nghiệp thuê đất để phát triển khu công nghiệp thì
làm dự án, được phê duyệt đầy đủ, cấp tỉnh quyết định giao đất. Được giao đất rồi
thì doanh nghiệp tìm cách chuyển mục đích, bán lấy tiền… Qua kiểm tra, tỉnh Hà
Tây có 274 xã có sai phạm trong việc sử dụng, mua bán đất. Một số tỉnh khác
cũng sai phạm không kém Hà Tây, (tỉnh có 320 xã mà sai phạm đến 274 thì… hết biết).
Gần đây, ngay giữa Hà Nội, hàng ngàn hecta đất rừng phòng hộ của huyện Sóc Sơn
đã bị lâm trường (có sự tiếp tay của chính quyền địa phương) bán trái phép. Tại
Đông Anh có cán bộ xã như vua một vùng, đã bán đất bừa bãi như bán mớ rau, con
cá”.
(Đặng Đại, TTCT. 9/7/2006,
tr.10).
ĐỪNG:
Ông Huỳnh Kim (Hai Kim) là cây bút viết về nông dân trung thực, chí tình. Từ
năm 2007 đến giờ ông đã viết hàng trăm bài bênh vực, bảo vệ lợi ích cho nông
dân.
Bài mới nhất của ông Hai Kim: “Đừng nhân
danh những điều tốt đẹp” có nêu ra 6 cái ĐỪNG. 1/ Đừng nhân danh các thứ nhãn
mác, chủ nghĩa này nọ để tước quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. 2/ Đừng nhân
danh công nghiệp hóa, an ninh đất nước để tước quyền sở hữu ruộng đất của nông
dân. 3/ Đừng nhân danh chống lạm phát và an ninh lương thực để khống chế giá
lúa gạo của nông dân. 4/ Đừng nhân danh quyền lợi của nông dân mà mua lúa tạm
trữ, cướp lợi nhuận của nông dân. 5/ Đừng nhân danh an ninh lương thực để khống
chế bằng giá đền bù rẻ mạt cho nông dân. 6/ Đừng nhân danh ổn định chinh trị để
chiếm Hội nông dân của nông dân.
(Huỳnh Kim, quechoa.vn
7/11/2012) ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét