Trong gian phòng chật hẹp có bốn bàn thờ,
ba trang thờ. Thầy Mười Chắc đốt nhang đem cắm lên tất cả các nơi đó, rồi rót
rượu khắp lượt, mỗi chỗ một ly nhỏ. Thầy đứng giữa nhà, chắp tay, nhắm mắt,
khấn vái ê a như hát dân ca. Làm xong các nghi thức ấy, thầy Mười đến ngồi đối
diện Hiền và Linh, rót trà uống liền ba ly, không mời khách. Nhìn dáng điệu,
cung cách hành lễ của thầy Mười, Linh thấy ngồ ngộ, buồn cười, nhưng Hiền theo
dõi rất chăm chú, thành kính… Mở đầu, thầy hỏi tuổi của vợ chồng Hiền và thằng
Khanh – con chị – hỏi kỹ về Khanh, nó thường giao du với ai, trước khi đi có
bộc lộ hành động gì lạ không. Hiền trả lời rành mạch. Thầy Mười mở quyển sách
chữ Hán, lật giở tìm tòi một lúc lâu. Cuốn sách cũ mèm, đen xỉn, nhiều trang
rách.
Thầy Mười Chắc là người biết chữ Hán duy
nhất còn sống trong xã. Trước đây thầy chuyên coi chọn ngày tốt cho việc xuất
hành, cưới gả, ma chay, xây cất. Dân trong vùng và các xã lân cận ít nhiều ai
cũng tới gặp thầy vài lần, bởi không ai tránh khỏi các chuyện hệ trọng và cần
thiết đó. Hai năm gần đây thầy Mười nhảy sang lãnh vực chữa bệnh, bói toán, trừ
tà, bằng cây lá và bùa chú. Chẳng ai biết thầy học pháp thuật và cách trị bệnh
ở đâu, nhưng khách đến am đều đặn, và danh thầy Mười Phước Tường cũng bay đi
khá xa. Chức sắc địa phương không can thiệp vào vụ này, do thầy chỉ chữa các
bệnh nhỏ, và không đòi tiền công. Con bệnh trả thù lao tuỳ tâm, bằng gà vịt,
bánh trái, nếu muốn gọn chỉ cần đặt lễ vài ba chục ngàn, rất khỏe và tiện lợi.
Theo lời người quen chỉ vẽ, Hiền mang đến
đây một giỏ bánh ngon, một bó nhang thơm. Chị không rành trong việc này. Xưa
giờ chị chưa hề đi coi bói, càng không để ý đến chuyện am miếu. Chị xếp các thứ
này vào loại dị đoan, lạc hậu, mê muội. Nhưng cách đây tám hôm, con chị – thằng
Khanh – đứa con trai độc nhất, bỏ nhà đi hoang, quan điểm chị đổi khác… Đột
ngột, nó từ bỏ cha mẹ anh em, nhà cửa, sách vở. Tại sao nó đi, đi với ai? Phát
– chồng Hiền – chạy đến các nơi quen biết, xa mấy cũng đến, để tìm. Trình báo
với công an. Nhang đèn van vái sáng nhà, cầu cho thằng nhỏ hồi tâm quay về.
Mười tám, trên lý thuyết, là tuổi thành niên, nhưng Khanh chưa ra dáng người
lớn. Nó chẳng biết một nghề nào, ngốc nghếch, dại dột. Tám triệu bạc, một mớ
quần áo, nó sống được bao lâu?… Lúc nghe Hiền rủ đi Phước Tường coi bói, Linh
ngạc nhiên. Ban đầu Linh định châm vài câu trêu chọc nhưng nhìn nét mặt ủ dột
của chị, Linh không dám. Lạ đấy, nhưng đi thì đi, xem cho biết am đền đồng bóng
nó thế nào! Thầy Mười ở Phước Tường, có tiếng lắm, ngay cả những người không
bệnh hoạn mất mát gì cũng nghe danh thầy.
Thầy Mười Chắc khoảng ngoài sáu mươi, gầy
nhom. Trông thầy hiền, lờ đờ, như ông lái heo “về hưu”, chẳng giống tướng thầy
bà. Nếu bây giờ thầy cầm ngược cuốn sách đọc, Linh cũng không thấy lạ!… Tra cứu
trong sách xong, thầy hỏi, nhỏ nhẹ:
“Đệ tử có quen ai ở Sài Gòn không?”.
“Dạ, có”. Hiền đáp.
“Sa Đéc, Cần Thơ?”.
“Dạ, không”.
“Đó là hướng nam. Thằng nhỏ này đi về
nam… Tuổi nó năm nay xấu, nhất là từ tháng sáu đến tháng tám”. Hiền dạ, cung
kính.
“Nó đi với một gã trai, cao lớn, đen đúa”.
Hiền hỏi lại:
“Một người đàn ông, đen… không lẽ nó bị
bắt cóc?”.
Thầy Mười nhìn ra sân, đăm chiêu. Nhiều
loại nhang khác nhau cùng cháy một lúc tỏa ra một thứ mùi gây gây, nửa thơm nửa
khét.
“Đệ tử chớ lo lắng quá, bọn trẻ đi rong
là chuyện thường… Đến cuối năm, tháng mười một tháng chạp, sự việc sẽ xoay
chuyển qua phía khác, thuận hơn, tốt hơn, chừng đó ta sẽ biết tin”.
Hiền hốt hoảng:
“Phải đến tháng chạp mới biết sao thầy?”.
Linh không ngờ lo âu có thể khiến người
ta phờ phạc như thế, nhìn vẻ mặt Hiền lúc này thật đáng thương.
Một bà thấp người, hồng hào – là vợ thầy
Mười – từ nhà dưới lên, chắp tay thưa:
“Con mướp nằm thẳng cẳng, mắt trợn ngược,
dường như nó sắp chết, thầy xuống coi giùm”.
Thầy gắt: “Ta bận, mèo với chuột, cứ để
đấy!”.
Bà vợ không chịu: “Phải cho nó uống thuốc
giải… nó chết mất… tại thầy cả”.
Thầy Mười nạt: “Sao lại tại ta, con nữ
này hỗn!”.
Bà vợ thụt lùi, đi xuống, nhưng vẫn buông
thêm một câu: “Con mèo yếu… đã nói là đừng bắt nó ăn…”.
Chờ cho chuyện mèo lắng lại vài phút,
thầy Mười nói:
“Trước tiên, đệ tử hãy đến tìm ở các nhà
quen, hướng Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long… Nóng ruột thì tìm, nhưng ta thấy sớm lắm
cũng phải cuối năm nó mới về”.
Hiền nói như than:
“Ông xã con đã đi Đà Lạt, thành phố Hồ
Chí Minh, Qui Nhơn, Pleiku… Còn những năm, sáu tháng nữa, lâu quá, chúng con
điên mất!”.
Thầy gật gù: “Ai cũng thương con… Có điều
chắc chắn, ta bảo đảm, nó mạnh lành khỏe khoắn, chẳng sứt mẻ gì”.
“Tạ ơn thầy!”. Hiền vái ba cái: “Đó chính
là thứ con ước muốn… mong cho nó bình an”.
Bỗng nhiên, từ nhà bên cạnh phát ra tiếng
máy hát, lớn hết cỡ, như sấm động. Những lời tình tự yêu đương anh em nhão
nhoẹt. Thôn xóm chật hẹp, đông đúc, chơi tự do thoải mái kiểu này thì một người
hò hét cả trăm người phải nghe. Thầy Mười có vẻ khổ sở.
“Thằng này xấc láo, chẳng nể ai… đã kiểm
điểm cả chục lần, như nước đổ lá môn… Nó thường gọi ta là lão lang băm, nhưng
rồi mọi người sẽ thấy, nó là thằng chết tiệt, vô hậu, càng về già càng lụn bại”.
Thầy đến bàn thờ giữa, nhấc lư hương lên
lấy ra một tờ giấy vàng. Đó là lá bùa, dài chừng hai gang tay, viết đầy những
hàng chữ đen ngoằn ngoèo. Thầy bảo:
“Đệ tử dán bùa này lên cửa phòng, hay đầu
giường thằng nam”. Và dặn: “Từ nay, vào các ngày mùng một, rằm, đệ tử nhớ cúng
thường xuyên. Không cần nhiều lễ vật, chỉ chè xôi hoa quả… Tối nào cũng lên đèn
cầu nguyện thánh thần trời đất ở trước sân”.
“Dạ, con hiểu, nhưng khấn thế nào ạ?”.
Thầy lừ mắt nhìn chị, như quở trách,
chuyện dễ vậy cũng hỏi.
“Cầu xin các bác các đẳng âm hồn cô hồn,
hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, kẻ chết sông chết suối người chết bụi chết bờ…
điều lành đem tới điều dữ tống đi, phù hộ cho phước đức gia đình phát vượng, để
vượt qua mấy tháng hung hạn u trệ… Các bác các đẳng là những vị qua đời nhằm
giờ thiêng, không người cúng giỗ, linh lắm… các vị sẽ mở mắt thằng nam, dẫn dắt
nó quay về”.
“Dạ, con nhớ rồi”. Hiền thấy trong dáng
điệu của thầy nét chững chạc, trong giọng nói có sự đáng tin cậy, trong ánh mắt
có vẻ thân thiện. Điều gì làm chị thấy như thế? Có lẽ xuất phát từ lòng thương
con!
Thầy Mười đến trước các nơi thờ, vái thật
sâu, mỗi chỗ ba vái, xong lễ. Thầy khoe:
“Cách đây hơn tháng có một ông ở Tân Quí,
mãi trong Tân Phú, tới nhờ tìm bà vợ đi hoang. Ông ấy đoán bà ta trốn nợ, ta
bảo theo trai. Xác thực là thế. Trốn nợ không phũ phàng bằng theo trai!… Trước
đó ít lâu, một ông chủ nhiệm ở Quận 3 đến hỏi về chuyện mất của. Ông ta mất hộp
nữ trang. Ta nói, con trong nhà lấy, ông ấy không tin, nghi cho con bé giúp việc.
Ta dám đem cái thủ cấp già này ra đặt cược… Quả đúng như ta thấy, đương sự phục
quá”.
Linh ngắm kỹ thầy, mong tìm thấy ở ông
già khô đét này những dấu hiệu khác người thường… Thời buổi văn minh, đã qua
thế kỷ 21 khá lâu, sao vẫn còn các hình thức sinh hoạt mơ hồ, thiếu cơ sở khoa
học? Các thầy loại này giỏi thật không, có trị được bệnh cứu người không? Nếu
có, kết quả ở mức nào? Nếu không, tại sao người ta vẫn tìm đến nhờ giúp đỡ. Vấn
đề có lẽ nằm ở chỗ “lưng chừng – nửa tối nửa sáng”, điểm giáp ranh giữa hư và
thực… Có bệnh thì vái tứ phương. Con người, dù đã khôn ngoan, giỏi hơn xưa,
nhưng vẫn còn các nhược điểm lớn, vẫn bị bệnh tật, tai họa bất ngờ và chết chóc
đe dọa, đeo bám bên lưng. Bước vào khu vực này thì khoa học chưa thể hoặc không
thể giải quyết được gọn gàng.
Hiền đặt lễ một phong bì khá dày. Thầy
Mười cầm, rút lấy hai tờ giấy bạc.
“Ta nhận tiền nhang đèn, chừng này thôi…
làm phước giúp bá tánh… À quên, thằng nam có bạn gái chưa?”.
“Dạ, chưa đâu ạ, cháu còn dại… nó ham học
lắm”.
“Người lớn tuổi hay lụy vì tiền, thanh
niên thì khổ do sắc… Đệ tử yên tâm, nó sẽ về, tự quay về”.
“Dạ, con mong ngày mong đêm”.
“Đệ tử gan dạ lắm, gặp cảnh ngộ này nhiều
bà khóc mùi, bỏ ăn”.
*
Trên đường về, Linh hỏi Hiền:
“Chị đoán thử Khanh đi đâu, tại sao nó đi”.
“Chị đã nghĩ nát nước, chịu”.
“Nếu nó lớn hơn tí nữa, ta có thể nghi nó
theo người yêu… Thầy Mười lấy lễ bao nhiêu?”.
“Bốn chục ngàn”.
“Ở nông thôn số tiền ấy rất đáng kể… mỗi
ngày tiếp ba khách là ấm… Đi cấy, trên nắng dưới bùn, còng lưng, ngày công chỉ
hai mươi ngàn”.
“Không tính như vậy, em ạ… Thu nhập hàng
tháng của ca sĩ nổi tiếng có thể lên tới hai, ba trăm triệu. Nhiều cầu thủ bóng
đá lãnh lương bảy, tám chục ngàn bảng Anh mỗi tuần… Có những loại công việc giá
trị rất riêng, không thể đo lường bằng cân ký chợ búa”.
Linh vẫn đưa ra những nhận xét làm Hiền
không vừa lòng:
“Ông ấy lớn tiếng quảng cáo, tự khen
mình, miệng lưỡi ngọt xớt… Khó biết chỗ nào thầy thấy được nhờ con mắt thứ ba,
điểm nào nói mò”.
“Không dễ đánh giá, nó như tín ngưỡng,
tín đồ phải tin vô điều kiện… Linh cũng biết, xưa nay chị đâu có ưa thích
chuyện phù phép viễn vông hoang đường… Chẳng có gì rõ ràng cả, nhưng nghe thầy
Mười nói chị cảm thấy một cái gì đó chắc chắn, khiến mình vững bụng… Gần nửa
năm nữa, hơi lâu, nhưng dù sao nó về là tốt… ôi, con với cái!”.
Vững bụng? Có lẽ trong lúc bối rối, lo
sợ, đây như chiếc phao để chị bấu víu, dù có thể là phao ảo.
“Thầy Mười đáo để, sắc nhọn lắm… chị nhớ
không, thầy rủa lão hàng xóm sau này sẽ tàn mạt”.
“Nói như thế là nguyền rủa? Em nghiêm
khắc quá!”.
*
Thằng Khanh về, sau bảy mươi ngày phiêu
lưu tình ái thơ mộng, thú vị với một bạn gái. Anh chị vù ra Đà Nẵng, ở nhà bà
dì ruột của “nàng”. Vợ chồng Hiền mừng quính, không la mắng, gạn hỏi Khanh câu
nào, bởi sợ nếu làm om lên sẽ gây thêm sự dòm ngó chú ý của lối xóm, chẳng ích
gì. Nó về là may lắm rồi… Mới hơn hai tháng nhưng trông Khanh khác trước, da nó
sậm, người chững chạc… Đà Nẵng, cái xứ nắng gió xa tít ngoài Trung, không phải
Nam bộ!
Anh Phát mở một bữa tiệc mừng, đãi bà con
ở gần và vài bạn thân. Tiệc nhỏ, nhưng ấm cúng, thịnh soạn. Không còn gì vui
hơn, anh chị rất quí trọng con. Dĩ nhiên, Linh cũng được mời… Linh nói với
Hiền:
“Đà Nẵng! Thầy Mười Chắc lại nói vào Nam”.
“Sao đúng hoàn toàn được, đoán mà”.
“Về sớm, chắc anh chị hết tiền?”.
“Không, vì Khanh nhớ nhà, nhớ ba má! Chị
đã nói, nó vẫn còn nhỏ… Con bé đó ghê thực, nó bày mưu tính kế, vẽ đường”.
“Thầy Mười bảo phải đến cuối năm…”.
“Cũng xê xích chút ít, như bác sĩ chẩn
đoán bệnh… “đoán” thì có lúc đúng lúc sai”.
Nhưng thầy Mười Chắc nói sai nhiều, Khanh
cặp với bồ thầy lại bảo đi cùng một ông! Linh thấy lạ, Hiền không chê trách ông
thầy đó tiếng nào.
“Thầy nói đúng các điều cốt tử, là Khanh
trở về, và mạnh lành… Tương lai của nó vẫn tươi nguyên, nó sẽ học lại, nay
không thi thì sang năm thi, muộn chút xíu, chẳng mất gì!”.
Một ông bạn hỏi anh Phát:
“Giờ đây chắc chúng ta không còn gọi
thằng Khanh là chú bé nữa?”.
Anh Phát đáp, vui vẻ:
“Tất nhiên rồi, ngay như luật pháp cũng
đã quy định từ lâu, mười tám là tuổi trưởng thành!” ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét