Cha mẹ Nhâm muốn có cháu bồng nên thúc
giục anh lập gia đình sớm. Nhâm cưới vợ năm hai mươi tuổi. Nhưng bảy năm trôi
vút qua vợ chồng Nhâm vẫn chưa có con.
Nhâm thấp
người, nhỏ con nhưng khỏe mạnh, rắn rỏi. Bảy Là – Vợ Nhâm – cao lớn hơn chồng.
Nàng là nông dân nòi, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời nối tiếp nhau
sống trên đồng ruộng. Hai người đều sợ bị quy tội gây ra việc hiếm muộn. Bảy Là
tìm đến hàng chục chùa, đền, am miếu, cúng lạy cầu con. Nhâm lui tới mòn dép ở
các phòng khám, bệnh viện, bác sĩ, thầy lang, tây ta đủ dạng. Và cuối cùng Bảy
Là chán nản, buông xuôi. Nhâm quay sang làm theo kinh nghiệm dân gian: bí mật
đi “gieo giống” trên nhiều “loại đất”.
Cũng chính cái khâu này đã nói cho Nhâm biết, một cách hùng hồn, anh là
hạt giống mốc hư!
Nhâm buồn,
chán đời, bê trễ trong việc làm ăn, tính nết thay đổi. Trước anh hiền khô, ai
nói gì cũng cười, tối ngày cái cuốc nắm trong tay, trời chưa sáng đã có mặt
ngoài đồng. Nay anh nói năng cục cằn, mặt mũi lúc nào cũng cau có, ưa gây gổ
với mọi người, và lại thêm tật thích rượu… Chỉ một thời gian ngắn Nhâm đã chễm
chệ ngồi vào cùng chiếu với băng nhậu Năm Giáo. Tên anh nằm trong sổ nợ của tất
cả quán trong làng và nhiều quán lớn ở chợ xã. Năm, sáu ngày trong một tuần
người ta thấy Nhâm ôm chai nước cay khư khư trước ngực, say mèm, đi nghiêng
ngả, xiêu vẹo trên đường như người bị bịt mắt. Anh nói với các bạn: “Ông trời
chỉ con đường này cho ta thì ta phải bước đúng trên đó, tiến về phía trước, tới
đâu mặc xác!”.
Một đêm
trăng Nhâm tắm sau vườn, Bảy Là ra xách nước. Nhâm bảo:
- Bồ yêu,
tắm đi, anh xách nước cho.
- Tử tế gớm,
nhưng đây tự làm cũng được – Bảy Là cười.
- Tắm kỹ,
xối mạnh cho trôi hết đau buồn.
Nghe cách
nói là lạ, Bảy Là tới gần nhìn sát vào mặt chồng.
- Nói hay
quá, như kịch vậy, buồn à?
- Buồn lắm,
chết được! – Nhâm ngồi xuống thành hồ bên cạnh giếng – Ngồi đây, anh nói cho
nghe.
Trời quang,
trăng sáng tỏ, có thể nhìn thấy hàng chuối tận cuối vườn.
- Anh không
phải thứ người ồn ào, hời hợt như bọn Năm Giáo… Em biết đấy, anh khổ vì chuyện
con cái của tụi mình.
- Nghĩ ngợi
làm gì cho đau đầu, thong thả rồi sẽ có!
- Không thể
có, em à, anh biết. Lúc có thì tám tháng mười ngày đã có thể đón mừng một chú
nhóc! Chúng mình sống với nhau lâu quá rồi… Đừng tránh né sự thật, không nên
lừa dối nhau.
- Thôi, để
em xách nước, bỏ qua chuyện đó đi.
Nhâm nắm tay
vợ, hôn liền mấy cái.
- Anh thương
em… chuyện này do lỗi của anh.
Bảy Là đẩy
Nhâm ra.
- Em đi đây,
anh đừng nói nữa.
Nhưng Nhâm
vẫn không buông tay vợ.
- Đâu phải
chuyện đùa. Ba má mong cháu đỏ mắt, em cũng muốn con, nhưng anh…
Bảy Là ôm
đầu Nhâm vào ngực mình, vỗ nhè nhẹ, nói như ông đánh xe nựng con ngựa.
- Im, im
nào! Bữa nay sao ăn nói lung tung thế!
- Anh không
con, nhưng em vẫn ở với anh chớ? – Nhâm nghẹn ngào, như sắp khóc. Bảy Là bối
rối.
- Đã biểu
đừng nói nữa!
Nhâm nói đứt
quãng:
- Đã quen có
em, nay anh không thể tưởng tượng ra cảnh sống mà thiếu em bên cạnh. Anh thương
em… Em đừng bỏ anh… Anh biết rằng em sẽ thương người khác, sẽ bước qua một con
đường khác!
Bảy Là vò
tóc chồng, cười nhỏ, nói bằng giọng đùa cợt:
- Lớn sù còn
làm nũng, không mắc cỡ sao?… Nếu có rẽ sang con đường nào khác thì em cũng sẽ
dẫn anh theo, em hứa!
Sau vài phút
nín lặng, Nhâm nói:
- Anh muốn
tụi mình có hai con, một trai một gái.
- Em chỉ cần
một, trai gái chi cũng được.
- Anh sẽ đặt
tên bé gái là Trúc Đào. Bé trai để em đặt.
Bảy Là lại
cười. Nàng vui tính, thích đùa, nhưng trong cuộc sống lại gặp nhiều chuyện buồn.
- Tên không
quan trọng, anh có thể đặt cho tất cả.
Hồi lâu, anh
chị không nói gì.
- Con của
mình… Em muốn có một đứa để sáng chiều chở nó đi học.
- Anh mong
hai đứa đều giống em, chỉ giống em… anh chẳng có điểm nào đẹp cả.
- Anh nịnh,
em như cây cau!… Chị Thủy thường nói, chị chán cái việc đưa đón bọn trẻ đi học,
coi đó như một gánh nặng. Còn em, em lại thích việc ấy.
- Anh đã
nghĩ rồi, nghĩ rất chín, là em có thể có con, nhưng vẫn ở với anh.
- Anh sao em
vậy, mình không thể cãi trời. Chúng ta sẽ sống với nhau tới chết!
Nhâm rúc đầu
vào ngực vợ.
- Được rồi,
em tốt lắm… Nghe này, em có thể đi lại với bất cứ ai để có con… như thế nghe
chưa… đó sẽ là con của chúng ta.
*
B
|
ảy Là không để ý lắm đến chuyện “tìm con” của Nhâm nói,
nhưng chỉ hai tuần sau, như có một bàn tay phù phép nào đó xếp đặt, nàng chạm
trán Chín Chu, một chuyên gia “cho con”. Trong làng Chu nổi tiếng với hai đặc
điểm: giàu có và máu trăng hoa. Tính tình anh ta dễ chịu, rộng rãi, thường giúp
đỡ mọi người. Hàng xóm ai túng thiếu chạy đến Chín Chu sẵn sàng đón tiếp, cho
mượn tiền, không hơn thiệt, không tính lời. Riêng đối với phụ nữ Chu càng tỏ ra
hào phóng. Anh ta dùng tiền bạc làm mồi câu, mua chuộc lòng người. Gần như ai
cũng biết Chu là tác giả của câu nói nổi tiếng: “Không có con mẹ nhà nghèo nào
chê tiền!” Gặp ai quen anh ta cũng nói đến cái ý đó một cách thích thú, như
truyền bá một tư tưởng lớn… Trong khắp ba xã quanh vùng, Chu có hàng chục nhân
tình với sáu, bảy đứa con rơi. Mọi người biết rõ chuyện này, vợ Chu cũng biết,
nhưng chị ta yếu ớt, đau bệnh rề rề nên làm ngơ… Qua miệng mấy bà làm thuê,
người ta loan ra nhiều giai thoại về chuyện lăng nhăng của Chín Chu. Bữa nọ cô
vợ trách móc: “Ông cứ đem tiền nuôi mấy con quỷ cái, thiên hạ cười xấu mặt.”
Chu hỏi: “Nuôi ai, ông ngu lắm à?… Mày thấy, ông làm ra tiền, mà những đứa làm
được nhiều tiền không bao giờ ngu.” – “Nuôi ai thì ông biết, không che được mắt
làng xã đâu.” Chu nổi quạu: “Có gì phải che giấu! Tiền của ông, ông xài, đây
không cướp giựt của cha mẹ đứa nào!” – “Thấy chướng thì họ nói, vì trời cho
người ta cái miệng và hai mắt, cấm sao được!” Chu cười gằn: “Vậy là mày muốn
gây sự. Ờ, nói cho bớt tức, nhưng nên nhớ, ông không lấy tiền của cha mẹ mày!”
Chị vợ thở ra: “Chắc ông nghĩ hễ có tiền là làm gì cũng được, muốn nói sao thì
nói, hèn chi ông tuyên bố rùm lên: hết thảy bọn đàn bà nghèo đều mê tiền!” Chu
quát: “Đúng, chính ông rao thế đấy!… Bọn chó chết nhỏ mọn đê tiện lúc nào cũng
ganh tị, bêu xấu những kẻ giỏi hơn chúng… còn lũ đàn bà động đực, chúng khoái
ông, ông không hãm hiếp đứa nào!” – Và chuyện khác: một hôm vợ Chu bắt gặp một
bức thư với nét chữ phụ nữ bay bướm, trong túi áo Chu: “Anh Chín yêu thương – Sau khi suy nghĩ hai ngày bạc tóc em viết thư
này cho anh. Em không muốn làm anh bận tâm, phiền lòng. Nhưng đã ba hôm rồi bé
Phú Cường ngả bịnh. Nó nằm bẹp, lúc nóng lúc lạnh, chẳng rõ bịnh gì… Anh vẫn
thường nói, anh sống có tình nghĩa, thủy chung. Bé Phú Cường là kết quả mối
tình mặn nồng của hai ta. Đối với em nó là vàng ngọc, khí trời, lẽ sống… Em
nhớ, anh từng nói nhiều lần, anh không phải con gà cồ, bỏ mặc bầy con cho gà
mái, vô trách nhiệm. Anh cam kết sẽ chăm sóc, bảo bọc con suốt đời… Anh mau đến
thăm Phú Cường – Em, người yêu anh trong kiếp này, và kiếp sau.” Chị vợ hỏi: “Thư này của
ai?” Chu ú ớ. “Ghê gớm, ngọt như đường hóa học! Tình tứ, tươi mát như trai gái
mười bảy!” Chị ta nghiến răng, mắt long lên. “Ông nói đi, chuyện này thế nào?”
Chu cà lăm: “À, nó chỉ là… chỉ là… coi như chuyện qua đường, đâu phải vợ chồng,
con cái gì!” – “Rành rành một thằng nhỏ, còn nói chẳng phải con, vậy là chuột,
ếch hay gà, heo?… Nó mấy tuổi?” – “Hình như bốn” – “Ông có mấy đứa loại này?”
Chu đáp, nhỏ nhẹ: “Làm gì có mấy đứa… toàn chuyện vui vẻ, văn nghệ, thoáng qua
rồi bỏ.” Chị đàn bà cười sắc lạnh. “Hỏi cho vui, tôi biết nhiều hơn ông tưởng!
Đây là Kim Phượng, bán trái cây ở chợ Giã, ngồi gần khu giày dép… Tôi sợ một
ngày nào đó người ta sẽ chém bay đầu, chặt đứt chân ông! Tôi cũng sợ sau này
tôi và mấy đứa nhỏ không còn nhà cửa để ở, ruộng vườn để cày cấy, tiền bạc để
học hành… Gieo gì gặt nấy… Bao năm rồi ông đi gieo gai, gieo cỏ.”
*
B
|
uổi
sáng, khoảng 8 giờ, Bảy Là đến nhà Chín Chu mua lúa giống. Nhà có vẻ yên vắng.
Hai bé gái – con Chu – chơi nhảy dây gần cổng. Chu tưới cây kiểng trong sân.
Vào giờ này chắc những người khác ra đồng hoặc đi chợ.
Chu mời
khách vào nhà dưới, ngôi nhà dài nửa là phòng khách nửa làm kho chứa lúa. Nghe
Bảy Là xin mua giống, Chu nói không có gì trở ngại, năm phút xong ngay, xóm
giềng giúp nhau là nghĩa vụ. Anh ta pha trà và bưng ra một dĩa bánh ngọt mời
khách. Rồi anh ta rề rà nói chuyện thời tiết nắng mưa, chuyện đồng áng gieo
cấy, thật cặn kẽ, dài dòng. Bảy Là nôn nóng nhưng không dám giục, ngại mất
lòng.
- Lâu lắm mới
gặp em. Nay em đen, da hơi sậm, nhưng vẫn trẻ – Chu cười hì hì.
- Dạ, làm
sao trắng được, anh Chín, tối ngày cuốc cuốc gánh gánh, phơi mặt ngoài đồng.
- Nhưng Bảy
vẫn trẻ, cốt yếu ở chỗ đó! Trẻ và đẹp, chớ già úa là hết, xong đời!
- Loại giống
này ra sao, anh Chín? - Bảy Là hỏi đưa đẩy.
- Số một.
Anh đã làm hai vụ, gieo một giạ gặt mười tám giạ. Bảy ăn bánh đi, để anh vô
đong lúa.
Chu xách bao
đi ra sau. Bảy Là nhìn ngắm một lượt khắp phòng. Nơi đây cái gì cũng mới và
đẹp. Tủ bàn, máy truyền hình, chiếc xe Nhật, cái đi văng… Chu ôm bao lúa ra để
bên cửa rồi gọi con vào sai bảo gì đó. Hai đứa bé vâng dạ, dắt xe ra chở nhau
đi.
- Xong rồi,
bốn giạ, anh đong đầy vun.
- Không, ba
giạ thôi, anh Chín.
- Cứ lấy cả
đi, gieo cho dày dặn.
- Ba giạ là
vừa, với lại em chỉ đem tiền mua ba giạ.
- Không sao,
cho em nợ – Anh ta tới ngồi bên Bảy Là – Thôi, coi như anh thêm chút ít, em đem
về cho gà vịt nó ăn.
Chu nhìn Bảy
Là chăm chăm, cái nhìn rất lạ. “Chắc vua ong bướm muốn trổ tài đây.” Bảy Là sực
nhớ câu nói của chồng: “Em đi lại tự do với bất cứ ai để có con”, bất giác nàng
rùng mình.
- Bầy gà nhà
em nhìn sướng mắt quá.
- Anh Chín
thấy à?
- Anh mới đi
ngang qua hôm kia. Lúc đó Bảy quét sân, ông già cho gà ăn gần bếp, Nhâm Lép thì
dựng cây ăng ten.
Bảy Là đứng
lên, nàng thấy cần phải về ngay. Trong phút chốc nàng bỗng nhớ đến những điều
người ta thường nói về Chu. Loại chuyện đó khá nhiều, ai cũng biết: mấy mối
tình nhăng nhít chớp nhoáng. Những đứa con rơi. Các trò tán tỉnh, gạ gẫm. Thứ
giọng điệu ngọt ngào đầu môi. Những đồng tiền hấp dẫn, đầy ma lực.
- Thôi, em
về.
- Khoan đã,
chơi chút nữa, vội gì.
- Chị Chín
đi chợ? – Bảy Là lúng túng, nàng chẳng hiểu vì sao mình lại hỏi thế.
- Bà ấy đi
Mỹ ăn đám cưới thằng cháu… Mỹ Đồng ấy mà!
- Anh vui
tánh quá.
Chín Chu tỏ
ra rất hào hứng.
- Xưa giờ
anh vẫn vậy. Đời mà em! Sống tốt với nhau, thương yêu nhau ta sẽ thấy việc gì
cũng nhẹ nhàng, và ta phấn chấn, khỏe, trẻ lâu… Hơn nữa, thử nghĩ xem, bủn xỉn,
cáu kỉnh, gắt gỏng để làm gì, được gì?… Lâu nay em sống vui vẻ không?
- Không vui,
cũng chẳng buồn – Bảy Là ngẫm nghĩ giây lát – nhưng lo lắng thì có thừa.
- Chuyện con
cái chớ gì? Đó là lỗi của Nhâm Lép, chắc chắn thế… Em khỏe mạnh, tươi tắn thế
này… Nhưng đừng lo, em còn trẻ, ngày rộng tháng dài.
Chu nhìn
xoáy vào mắt Bảy Là, cái nhìn bốc lửa. Bảy Là lại nhớ câu nói của Nhâm đêm
trăng nọ, và nàng rùng mình.
- Vô trong
kia anh cho Bảy xem một thứ nếp giống mới – Chu nắm tay Bảy Là – Bữa rằm anh ra
Vạn Phước mua được mấy bao nếp tốt. Loại này mới toanh, năng suất cao, quanh
đây chưa ai có… Em vào xem, nếu thích thì lấy vài giạ.
Không đợi
Bảy Là đồng ý, Chu kéo nàng về phía một căn phòng nhỏ gần đó. Bảy là muốn chạy
ra ngoài. “Không, tôi về! Tôi không cần!” Nàng luống cuống, hốt hoảng. Tới cửa
phòng, Bảy Là níu lấy cánh cửa. Chu chỉ vào trong:
- Đó, em
thấy chưa, mấy bao nếp giống.
Quả thực,
trong phòng có bốn cái bao, nhưng là bao xi măng. Cạnh đó còn có chiếc xe đạp
cũ và một cái giường. Chu rút từ túi quần ra một nắm tiền, giúi vào tay chị đàn
bà.
- Anh thương
em, Bảy… Nghe đây, em đẹp lắm. Anh sẽ cho em nhiều tiền, rất nhiều tiền… Em sẽ
bớt khổ… Đồng tiền là xương cốt của đời. Không tiền thì dù đẹp đến mấy, giỏi
tới đâu cũng chỉ như kẻ câm điếc… Anh sẽ tặng em bạc triệu, và một đứa con… Em
hãy quên thằng Nhâm Lép đi. Nó là thằng gà mái, ngốc nghếch, bạc nhược… Quên nó
đi. Nó chỉ làm em khổ suốt đời thôi.
Bảy Là không
cầm tiền. Nàng vừa bước lùi ra cửa lớn vừa xua tay. “Anh Nhâm có thể là con gà
mờ, nhưng chắc chắn anh ấy không khi nào muốn làm khổ tôi… chắc như thế!” ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét