Một ngày cuối
hè, Hậu về xóm Thượng – một xóm chài nhỏ nằm bên hóc núi trọc, trong bán đảo
Hòn Mê – thăm cậu Qua. Cậu là anh họ của mẹ Hậu… Hậu dự tính sẽ ở chơi hai
ngày. Đến một nơi chó ngáp, gặp những người xa lạ, chẳng có lấy một điều lý thú
nhỏ. Nhưng, sự việc diễn ra sau đó trái ngược hoàn toàn với những ý nghĩ ban
đầu, Hậu có một cuộc nghỉ mát hào hứng, vui chưa từng gặp, lâu tới sáu ngày.
*
Tối đến, ông Qua
đãi Hậu món thịt dông. Dông nướng, chiên, uống với rượu trắng ngâm thuốc Bắc.
Đây là đặc sản, ít nơi có. Con vật này sống trên mấy đồi cát, sau lưng xóm
chài. Dáng nó giống thằn lằn, lớn hơn tắc kè. Thịt nó ngon, mùi thơm lạ. Ngon
hơn gà, rùa, thỏ, dê. Hậu khen: đặc sắc, thượng hạng. Ông Qua thích chí bảo,
nếu muốn, Hậu ở lại chơi mười ngày, ông sẽ đãi năm chầu thịt dông, ăn rồi năm
mươi năm sau còn nhớ!
“Buồn quá, ở lâu
không được”.
“Bà con xóm này
sống cả đời thì sao?”.
Xóm Thượng nằm
trên một bãi cát rộng chừng sáu mẫu, địa thế trông giống một vịnh nhỏ. Nó mọc
lên cách đây hơn hai mươi năm, theo kiểu tự phát. Cư dân là những người chài
lưới bần hàn, từ nhiều nơi tụ lại. Hai mươi bốn gia đình. Xã Hải Triều mới cấp
giấy khai sinh, kết nạp nó khoảng mười năm nay.
“Mày học tới lớp
mấy?” ông Qua hỏi Hậu.
“Dạ, lớp mười”.
“Sao nghỉ?”.
“Học thua kém
bạn bè, mắc cỡ”.
“Ba mày không
nói gì?”.
“Ba con dễ chịu.
Ổng nói: Mày không muốn làm thầy, thì làm thợ. Làm gì có tiền là tốt, miễn đừng
đi ăn cướp! Với lại, gần đây các đài cũng thường nói: nước ta thừa thầy, thiếu
thợ!”.
“Uổng!” Ông Qua
hớp ngụm rượu, trầm ngâm. “Uổng! Cậu muốn có đứa con làm thầy giáo, nhưng không
được, đứa nào cũng chậm lụt… Con Luận, con May chỉ theo tới lớp năm, thằng Tạo
thì học ba năm vẫn đọc sách chưa thông… Ở đây xa xôi, đi học nhiêu khê quá”.
“Dạ, nghề dạy
học nhàn, khỏe”.
“Không đổ mồ hôi
mà vẫn có tiền, ấy mới tài! Lương lậu thầy cô thế nào?”.
“Dạ, trước kia
èo uột, nhưng nay ngon lành rồi… có thể sống ung dung, nhưng cũng khó giàu,
không bì được với nuôi cá, nuôi tôm”.
“Sao lại so vậy?
Gã đánh cá dù có bạc tỉ vẫn là anh cà cộ, tóc tai cháy nắng, người ngợm tanh
khét”.
Bà Qua đem ra
mấy cái bánh tráng mè.
“Ổng được bầu
làm ông lớn, hách lắm đấy”. Bà nói.
“Trưởng xóm, to
nhỏ gì!” Ông Qua giải thích: “Lúc đầu mọi người nhất trí chọn ông Cảng, kính lão,
nhiều tuổi nhất, nhưng ngặt, ông ấy không biết chữ”.
Từ nhà bên cạnh,
một chị, tiếng nghe còn trẻ, hát ru con: “Con ơi con ngủ cho rồi. Đèn khuya hắt
bóng, mẹ ngồi than thân”.
“Buồn chết
được!”. Ông Qua cười. “Uống mạnh vào, chẳng mấy khi mày ra đây… Dông ngon, lúc
nãy mày gọi là gì? Đặc biệt, đặc sản?... Tôm, cá, sò, ngao, chim chóc đều do
đất trời sinh ra, để nuôi chúng ta, phải không?”.
“Con uống yếu,
vài ly thôi”.
“Ăn nhiều, vững
bao tử, sẽ uống được… Ở xứ này, nếu không có mấy hũ rượu thì chẳng biết lấy gì
giải sầu!... Mày biết không, vào mùa mưa, tháng chín tháng mười, vùng này ngó
đâu cũng thấy một màu trắng đục, âm u hết sức!”.
“Không điện,
không máy hát, không phim ảnh”.
“Không xe, không
chợ quán… mà người ta vẫn sống!”.
“Quả là buồn
thật!”.
“Hồi mới ra đây,
vào mùa lạnh, cuối năm, các bà các chị khóc dài”.
“Sao không vào
gần quốc lộ, gần chợ?”.
Ông Qua thở dài:
“Vào đó ở đâu,
ruộng đất, bãi bờ đều có chủ… Vài bộ quần áo, hũ gạo, chiếc ghe tí tẹo, làm sao
chọi lại thiên hạ!... Rượu được không?”.
“Dạ, ngon ác,
dông cũng vậy, miệng mới ngậm đã thấm vào cổ!”.
“Thẫn thơ đứng
dưới gốc mai. Bóng tôi, tôi tưởng bóng ai, tôi lầm”. Người mẹ trẻ hàng xóm lại
hát ru.
“Xóm biển mờ mịt
này có một điểm tốt, là dễ chịu. Dù trong túi chẳng có đồng xu nào ta vẫn sống
mạnh. Ốc, cua, dông, sò luôn có sẵn… Năm này qua năm khác. Ta trẻ, rồi ta lớn,
lấy vợ, sinh con đẻ cái, âm thầm, thảnh thơi… như con sao biển, như cây cam
dại!”.
*
Tạo nhỏ hơn Hậu
bốn tuổi, mới tròn mười bảy, nhưng vai anh, chiếu trên, nên xưng hô mày tao với
Hậu ngọt lịm. Anh đô con, da đen, tóc vàng hoe, ngực nở, tay chân bắp thịt nổi
vồng như lực sĩ. Anh làm việc giỏi, lanh lẹ, không kém người lớn.
“Mày trắng kỳ
cục, con gái xóm này không ai trắng vậy!”. Tạo nói. Anh ngạc nhiên khi thấy Hậu
không biết bơi.
“Ở lại chơi một
tuần mày sẽ biết bơi, tao có cách dạy, hay lắm”.
Anh bảo, có hai
kiểu học bơi: cấp tốc và tà tà. Ai muốn nhanh, lên ghe, ra chỗ nước sâu hai ba
thước, nhảy đại xuống, huơ tay quạt chân, uống vài hớp nước mặn, sẽ bơi được.
(“Thầy” và chiếc phao trực sẵn bên cạnh, yên tâm). Mau, hiệu nghiệm, đó là cấp
tốc. Ngược lại, đứa nhát gan, đứng gần bờ, nước cạn, ngoi lên hụp xuống, mất
chục ngày, cũng sẽ bơi được, nhưng ì ạch lắm! Hậu chọn cách sau, chậm nhưng
chắc… Chiều ngày thứ hai, Tạo đưa Hậu đến bãi cát hẹp sau một gành đá, cách xóm
Thượng chừng nửa cây số, tập bơi.
“Chỗ này vắng,
tập thoải mái. Mày lớn như tướng núi mà tập ở bến ghe người ta cười thúi mũi!”.
“Không biết thì
tập, sợ gì”. Hậu nói, đỡ ngượng.
“Con nít xóm này
mới bảy, tám tuổi đã bơi như rái, tới mười tuổi là đi thả lưới, giăng câu… Mày
ở chơi lâu lâu nghe, chừng bơi rành mới về”.
“Năm ngày thôi,
em phải về vì có nhiều việc cần làm”.
“Hay do buồn,
mày không ở được?... Sau này, chắc còn lâu mày mới ra đây lần nữa?”. Giọng Tạo
thật buồn. Hậu không ngờ anh mến mình như thế.
Hôm sau Tạo cho
Hậu coi số đồ nghề, dụng cụ câu mực. Anh nói, kỳ tới, nếu gặp mùa nắng, anh sẽ
đưa Hậu đi câu mực vài đêm cho biết. Rất hay, vui, dân phố không dễ được thấy
tận mắt. Những vật dụng đi câu vừa ít, vừa đơn giản. Một đèn chong, một chiếc
vợt, và chùm dây câu. Mồi không phải trùn, nhái, dế, chỉ là những vụn vải nhỏ
(có lúc dùng tôm giả, bằng nhựa). Thật lạ. Mấy sợi cước làm dây câu. Cách
khoảng hai gang tay, trên những dây đó, người ta cột một mẩu vải. Mực đớp mồi
vải, người câu kéo nó lên gần mặt nước, rồi dùng vợt “múc” lên.
“Hè sang năm mày
ra chơi, tụi mình sẽ đi câu mực. Chắc chắn mày mê, vui lắm… Ta đem theo hỏa lò,
chanh, ớt, muối mắm, rau, bánh tráng, bia. Vớt vài “em” lên, ta mổ xẻ ngay,
luộc, xơi tái, ngon ê răng đấy!”.
Hậu hứa: “Nghe
anh nói phát thèm, ờ, hè qua năm em sẽ ra”. Nói để Tạo vui lòng, thực bụng Hậu
chưa nghĩ đến. Từ nay tới đó còn lâu, hơn nữa…
*
Như nhiều phụ nữ
xóm Thượng khác, bà Qua đan lưới giỏi. Nếu không ra bến đón ghe về, không nấu
nướng trong bếp, thì bà ngồi trước thềm vá, đan lưới. Bà có thể ngồi suốt buổi,
lặng lẽ, chăm chỉ làm, chẳng nói tiếng nào, không ngơi tay. Ngoài việc vá lưới
nhà, bà lãnh đan lưới cho các tiệm quán trên huyện, mỗi ngày kiếm được chừng
ba, bốn chục ngàn. Đó là mức thu nhập đáng kể, nó không nhiều, nhưng ổn định.
Hậu ngồi xem bà
Qua đan lưới, mới chừng nửa giờ đã thấy mỏi lưng.
“Con chịu thua,
mợ giỏi”. Hậu khen.
Bà Qua cười: “Cố
làm kiếm tiền, giỏi quỉ gì… Việc này cũng dễ, nhẹ”.
“Nếu có cái máy
hát, mợ vừa đan vừa nghe, đỡ buồn”.
“Có vài người
cùng ngồi đan, chuyện trò qua lại, chắc bớt mỏi”.
“Con nghe nói
dân biển không bao giờ dẫm lên hay bước qua lưới và các ngư cụ khác?”.
“Không cấm,
nhưng mọi người đều kiêng cữ. Ai cũng sợ xấu, xui… Tin khơi khơi vậy mà”.
Bà Qua chỉ bến
ghe: “Con ra bãi cát kia, nhìn về phía mặt trời mọc, sẽ thấy một hòn núi nhỏ,
thấp, mờ mờ, đó là đảo Gầm. Nó như một doi cát dài, hình chiếc lá. Đảo hoang,
không người ở. Trên đó có những vạt cây chành rành, cam đường, rau muống biển,
và sỏi, đá. Giữa đảo, dưới gốc một cây cam đường lão có một ngôi miếu cổ, dân
chài gọi: miếu Ông. Ông là thánh thần nào, chẳng ai rõ. Nhưng miếu thường được
nhiều người đến cúng bái, nhang khói ấm áp. Cách đây mấy năm mợ cũng được ghé
đó thắp nhang một lần”.
“Chắc miếu linh
thiêng, cầu được ước thấy, nên bà con tôn kính?”.
“Đâu biết. Có lẽ
đây là chuyện nói chuyền tai nhau, chắc cũng chẳng ai thấy gì, nhưng ghe tàu
chạy ngang qua miếu, những người lái thường giở mũ, cúi đầu”.
“Về mặt tâm
linh, dân đi núi, đi biển giống nhau. Nơi làm ăn của họ bao la, bất an, nên họ
cần có chỗ dựa, cần các quyền lực vô hình độ trì… Chắc không bao giờ con người
chế ngự được giông bão, động đất, núi lửa”.
“Người xưa kể:
Trước kia, thời chưa có máy móc, dân biển còn dùng sức người chèo chống, có anh
trai trẻ nghèo khổ thường ra đảo Gầm đánh cá. Đêm nọ, sau khi giăng lưới, anh
ta lên bãi cát nằm ngủ chờ nước ròng. Đang ngon giấc, anh nghèo thấy một ông
già đến gọi: “Dậy con, bọn trộm lấy hết lưới rồi”. Anh ngơ ngác. Ông già tiếp:
“Lưới không còn, con làm gì? Con muốn có lưới mới không?”. Anh chàng vội quỳ
lạy, xin ông cho tấm lưới khác. Ông già đưa cho anh một tấm lưới xanh, chỉ bằng
bàn tay. “Đây là lưới thần, nhỏ, gọn, có thể cất giữ trong túi. Lúc cần dùng,
con đặt nó xuống biển, vái ba cái, lưới sẽ lớn ra, càng vái nhiều lưới càng
rộng. Nhưng con không được tiết lộ chuyện này với ai, và chỉ được dùng trong ba
năm. Đến hạn, đem lưới tới đây trả lại cho ta, nếu không con sẽ bị nhiều tai
họa”. Anh dân chài lạy như gió. Ông già bảo: “Không phải chuyện đùa, nếu quên
lời hứa, con sẽ biến thành con cá nhái, phải sống quanh quẩn bên đảo này mãn
kiếp”. Tỉnh dậy, chàng trai chạy xuống biển. Quả nhiên, lưới đã bị cuốn mất.
Trở lên bờ, anh thấy trong giỏ mây của mình một tấm lưới nhỏ như bàn tay… Từ đó
về sau, anh chàng tốt số làm ăn tấn tới, trở nên giàu có. Nhưng đến hạn ba năm,
do lòng tham vô độ, anh ta không trả lưới cho thần… Vào một đêm biển động,
giông gió nhấn chìm ghe anh ta bên đảo Gầm. Người và ghe biến mất tăm. Không rõ
anh chàng đã hóa thành cá, hay trôi dạt về đâu… Biết chuyện, dân đi biển trong
vùng chung tay xây nên ngôi miếu lớn trên đảo Gầm, thờ vị thần lưới. Nay, mỗi
khi vác xấp lưới lên vai, nhiều người nhớ lại chuyện xưa. Bên trong thứ vật
dụng lam lũ này cũng ẩn chứa lắm điều huyền ảo. Nên người ta quí trọng đồ nghề,
không dám làm ô uế, không ngồi lên hay bước qua chài, lưới”.
*
Ngày cuối, trước
khi Hậu về, bà Qua đãi anh một chầu ghẹ luộc. Ghẹ chấm muối ớt… Trước kia, vùng
biển này nhiều ghẹ. Mấy năm gần đây trên tỉnh, và các thị trấn mọc lên nhiều
nhà hàng sang trọng, du khách đổ về đông, những loại hải sản cua, ghẹ, sò huyết
vốn gốc bình dân, bỗng nhiên được nâng cấp, gán cho các nhãn mác “đặc sản” xanh
đỏ, đọc lên nổ nghe như súng. Đến nay, chính dân biển, người trực tiếp đánh
bắt, cũng hiếm khi được ăn các sản phẩm loại một ấy, do nó đắt tiền… Bà Qua
mang ra một rổ ghẹ đầy vun, đỏ au. Những con ghẹ to bằng bàn tay xòe, càng que
lòng thòng, mới nhìn đã thấy ngon. Chơi đẹp, đãi khách quí. Ông Qua có dịp khoe
rượu hảo hạng. Gọi là tiếp khách, ly anh
ly tôi, nhưng thực sự khách uống một, ông “chơi” ba.
“Cho cậu mợ gởi
lời thăm ba má… Ít lâu nữa cậu sẽ lên thăm… Lâu rồi, gần chục năm, cậu chưa ra
phố”.
Ông ăn một càng
ghẹ, ăn thật chậm, hớp ngụm rượu, khà thật lớn.
“Lên chợ, cậu
không biết làm gì. Đi lòng vòng thấy nhà cao, xe cộ bóng loáng càng thêm… phiền
lòng! Xe, nhà là của thiên hạ, của người khác… Chậc, điện đóm, hát hò đều xa lạ
đối với cậu! Cậu chưa biết nhiều thứ… chưa biết thì cũng như quên!”.
Rượu xịn, ghẹ
quá ngon. Ngon và hiền. Chắc chắn không có các chất độc hại tẩm ướp trong này,
đây là điều xóm Thượng hơn đứt thành phố!
“Cậu sẽ lên thăm
ba má mày… nhớ nói rõ như thế. Uống, cháu… Mày còn nhớ góc biển này, cậu mợ vô
cùng cảm ơn!”.
*
Ông Qua không
giữ được lời hứa.
Ngay năm đó,
vùng Hải Triều và các xã lân cận nổi lên phong trào nuôi tôm. Tôm sú và tôm
hùm. Tôm sú nuôi trong đìa gần bờ. Tôm hùm nuôi trong lồng neo ngoài xa, thường
dựa các vịnh đảo. Nghề này không khó lắm nhưng vốn ban đầu bỏ ra khá cao nên
không phải ai cũng có thể làm chủ đìa. Phân nửa hộ dân xóm Thượng cất lưới, bỏ
nghề đánh cá, xô vào nuôi tôm. Ông Qua cuống lên, thèm muốn, nhưng đành đứng xa
nhìn, do yếu vốn. Ông buồn cả năm, nhưng không biết cách nào thoát ra khỏi thế
bí… Đất cũ đãi nghề mới. Những láng rộng chỉ chứa rặt cây mắm xơ rơ đìu hiu,
những bãi đá lổn nhổn xám xịt xưa nay chỉ sinh ra mấy con hàu, con ốc giờ bỗng
thành đất vàng. Hai năm đầu trúng nhỏ, các năm sau lời to hơn. Sau sáu năm xóm
Thượng đã có bảy gia đình thoát nghèo, mua được nhà trong thị trấn… Nhìn hàng
xóm phất to, xênh xang, ông Qua rầu rĩ, đâm chán cảnh lưới chài thu nhặt vài ba
chục ngàn nhỏ nhoi. Nhưng nếu bỏ lưới thì đi đâu? Từ nhỏ đến nay, hơn 40 năm,
ông chỉ quẩn quanh với biển. Xưa kia cha ông cũng sống nhờ biển… Đến một ngày,
có người em họ mách cho ông cách làm khác. Vẫn là lưới, biển, nhưng ở phạm vi
rộng hơn: gia nhập đoàn tàu đánh bắt xa bờ. Không thích lắm, nhưng ông Qua gật
đầu bởi mê chỗ lương cao và những khoản phụ thu rủng rỉnh, như người em họ vẽ
ra. Nhưng ông lo, đi làm mướn cho người ta, chắc nặng nhọc lắm. Cuối cùng, ông
đi, với ý định làm ít lâu kiếm mớ tiền về mua đìa tôm.
*
Ông Qua lâm nạn
trong chuyến đi khơi thứ ba. Trên tàu có tám người, chết bảy, chỉ ông sống sót.
Ông bám vào một tấm ván, vật lộn với sóng gió bốn ngày, may được một tàu lớn
vớt. Nhưng ông ngất, không còn biết gì. Vào bệnh viện nằm hai ngày, ông chết,
vì đuối sức… Bà Qua nói, ông chết giống hệt mẹ ông. Hồi xưa cha mẹ ông Qua sống
khá lâu trên đảo Đầm Mây. Năm ông lên bốn, trong một lần đi chợ huyện, chiếc
ghe nhỏ của mẹ ông gặp gió chướng chìm giữa vời. Ghe chở sáu người, mẹ ông là
người duy nhất bơi được vào bờ, (xa khoảng bốn cây số), nhưng bà bất tỉnh, nằm
thiêm thiếp hai ngày rồi qua đời, do kiệt lực.
… Hậu không ngờ
mình sẽ không còn cơ hội quay lại thăm cái xóm chài nhỏ đáng yêu. Mợ Qua mất,
chỉ sau chồng vài năm. Anh Tạo có vợ, bỏ biển, lên đồng cày cuốc… Mỗi lần bất
chợt nhớ tới gia đình cậu Qua Hậu lại thấy bụng dạ xao xuyến. Anh nhớ những
buổi tập bơi bên gành đá vắng vẻ, trên trời dưới nước, đẹp như tranh. Nhớ mấy
lần ăn thịt dông nướng, ghẹ luộc, đơn sơ mặn mà. Nhớ câu chuyện về ngôi miếu cổ
rêu phong, với những tình tiết lung linh sương khói. Nhớ cái bến ghe nồng nặc
mùi mắm, mùi cá khô, xế chiều nào bọn trẻ da đen tóc vàng cũng bơi lội nô đùa
huyên náo… Có lẽ nào đổi thay là chuyện thường tình? Dù muốn hay không tháng
ngày vẫn trôi qua, con người vẫn già đi, bệnh tật rồi mất mát, đều đặn, thản
nhiên ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét